Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

chim trĩ giống , bán chim trĩ thịt gia re , trĩ đỏ, xanh , bảy 7 màu cung cấp ở tại bình định - quy nhơn , ban chim tri thit , cung cap chim tri giong o tai binh dinh - quy nhon giá rẻ

Vị trí địa lý
 
Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam, diện tích tự nhiên: 6.025 km², diện tích vùng lãnh hải: 36.000 km². Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10 Bắc, 108°55'4 Đông. Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, điểm cực Nam có tọa độ: 13°39'10 Bắc, 108°54'00 Đông. Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, điểm cực Tây có tọa độ: 14°27' Bắc, 108°27' Đông. Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134 km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Qui Nhơn, có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông. Bình Định được đánh giá là có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào, đông bắc Campuchia.
Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông, với độ chênh lệch khá lớn (khoảng 1.000m). Các dạng địa hình phổ biến là: Vùng núi, đồi và cao nguyên: chiếm 70% diện tích toàn tỉnh với độ cao trung bình 500 - 1.000m, đỉnh cao nhất là 1.202m ở xã An Toàn (huyện An Lão). Các dãy núi chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá. Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích khoảng 159.276 ha, có độ cao dưới 100m, độ dốc tương đối lớn từ 10° – 15°. Vùng đồng bằng: Diện tích khoảng 1.000 km², được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Bình Định còn có 33 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo đơn lẻ, trong đó đảo Nhơn Châu là đảo lớn nhất (364 ha) cách TP. Quy Nhơn 24 km, có trên 2.000 dân. Ngoài các vùng địa hình đặc trưng nói trên, Bình Định có khá nhiều sông. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu kw. Có 4 sông lớn là: Lại Giang, Kôn, La Tinh và Hà Thanh. Nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt, đầm Thị Nại là đầm lớn, rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cỡ quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội. Đầm còn được biết đến là một di tích lịch sử - văn hóa và với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.
Khí hậu:
Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1 - 26,1°C; tại vùng duyên hải là 27°C. Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5 - 27,9% và độ ẩm tương đối 79 – 92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối 79%. Tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751mm, cực đại là 2.658mm, cực tiểu là 1.131mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 – 12; mùa khô kéo dài từ tháng 01 – 8. Cấu tạo địa chất, địa hình, khí hậu làm cho Bình Định tuy không có đồng bằng rộng lớn nhưng có đồng ruộng phì nhiêu, đa dạng về sản phẩm  nông, lâm, ngư …, nhiều tài nguyên khoáng sản và tiềm năng thuỷ điện.
Tổ chức hành chính:
Bình Định có thành phố loại I trực thuộc tỉnh (TP Quy Nhơn), một thị xã (An Nhơn), 3 huyện miền núi (An Lão, Vân Canh và Vĩnh Thạnh), 2 huyện trung du (Hoài Ân,Tây Sơn), 4 huyện đồng bằng (Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước). Toàn tỉnh có 159 xã, phường và thị trấn. Trung tâm hành chính của tỉnh là TP. Quy Nhơn.  
Dân số:
Dân số tỉnh đang có xu hướng giảm cơ học, theo kết quả điều tra chính thức ngày 01/4/2009, dân số tỉnh Bình Định có 1.485.943 người, trong thành thị chiếm 25%, nông thôn chiếm 75%, mật độ 247 người/km². Ngoài dân tộc Kinh, còn có gần 40.000 các dân tộc khác cùng chung sống, nhưng chủ yếu là 3 dân tộc Chăm, Ba Na và Hrê sinh sống ở các huyện miền núi và trung du. 
Ban biên tập (tổng hợp)
TỔNG QUAN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH ĐỊNH
Bình Định là 1 trong 5 tỉnh, thành phố ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung. Bình Định có diện tích tự nhiên là 6.039 km2; theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 1/4/2009, dân số tỉnh Bình Định (năm 2009) là 1.485.943 người; gồm 09 huyện, 01 thị xã và Tp. Quy Nhơn. Thành phố Quy Nhơn là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định, được công nhận (theo Quyết định số 159/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc - Nam Việt Nam, đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn. Ngoài lợi thế này, Bình Định còn có nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú và nguồn nhân lực khá dồi dào. Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo Quyết định số 54/2009/QĐ-TTg ngày 14/4/2009), Bình Định được xác định sẽ trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước.
Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không và đường biển khá thuận lợi. Quốc lộ 1A đoạn qua Bình Định dài 118 km, Quốc lộ 1D đoạn qua Bình Định dài 20,7 km, Quốc lộ 19 qua Bình Định dài 69,5 km, với tổng chiều dài 208 km; lưu lượng xe trung bình ngày đêm khoảng 2.500-2.700 xe. Quốc lộ 19 nối liền cảng biển quốc tế Quy Nhơn với các tỉnh thuộc khu vực vùng Bắc Tây Nguyên qua các cửa khẩu quốc tế Đức Cơ, Bờ Y và vùng 3 biên giới Việt Nam- Lào- Campuchia, là một trong những con đường có chất lượng tốt nhất trong hệ thống trục ngang ở miền Trung Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện liên kết Đông - Tây, thúc đẩy giao lưu kinh tế, hợp tác phát triển với bên ngoài. Sân bay Phù Cát cách Tp. Quy Nhơn 30 km về phía Tây Bắc, có đường băng rộng 45 mét dài 3.050 mét. Tuyến Quy Nhơn - Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại mỗi tuần có 10 chuyến bay của Vietnam Airlines và 7 chuyến bay của Air Mekong; tuyến Quy Nhơn - Hà Nội và ngược lại mỗi tuần có 6 chuyến bay của Vietnam Airlines. Nhà ga hàng không có công suất 300 hành khách/giờ. Đường sắt Bắc - Nam đi qua Bình Định dài 148 km gồm 11 ga, trong đó ga Diêu Trì là ga lớn, là đầu mối của tất cả các loại tàu trên tuyến đường sắt. Ngoài các chuyến tàu Bắc- Nam còn các chuyến tàu nhanh từ Quy Nhơn đi vào các tỉnh khu vực Nam Trung bộ đến TP Hồ Chí Minh và đi ra đến Nghệ An.
Bình Định có cảng biển quốc tế Quy Nhơn và cảng nội địa Thị Nại, trong đó cảng biển quốc tế Quy Nhơn có khả năng đón tàu tải trọng từ 2-3 vạn tấn, cách Phao số 0 khoảng 6 hải lý, cách hải phận quốc tế 150 hải lý. Hiện cảng có 6 bến với 840m cầu cảng, khoảng 17.680m2 kho, 12.000m3 bồn và trên 200.000m2 bãi. Lượng hàng qua cảng năm 2005 đạt 2,5 triệu TTQ. Dự báo lượng hàng qua cảng có thể đạt từ 4-5 triệu tấn vào năm 2010.
Bình Định là tỉnh có tiềm năng về kinh tế biển; với chiều dài bờ biển 134km; vùng lãnh hải 2.500km2, vùng đặc quyền kinh tế 40.000km2; có các cảng cá Nhơn Châu, Quy Nhơn, Tam Quan, Đề Gi và khu trú đậu tàu thuyền Tam Quan. Trong các cảng cá nêu trên có cảng cá Nhơn Châu là tốt nhất, có nguồn lợi hải sản phong phú, giá trị kinh tế cao như cá thu, cá ngừ đại dương, cá nục, cá trích, cá cơm, cá chuồn, tôm mực cùng các đặc sản quý hiếm (yến sào, cua huỳnh đế, hải sâm...), tổng số tàu, thuyền là gần 8.000 chiếc trong đó có hơn 2.500 chiếc đánh bắt xa bờ. Sản lượng hải sản khai thác hàng năm khoảng 25.000-33.000 tấn (chưa kể sản lượng khai thác xa bờ). Dự báo đến năm 2010 khả năng khai thác khoảng 110.000 tấn, giai đoạn 2011-2020 khai thác ổn định ở mức 100.000 tấn/năm.
Tổng diện tích mặt nước khoảng 10.920ha (không kể 67.000ha mặt biển). Trong đó, đầm Thị Nại 5.060ha, đầm Đề Gi 1.600ha, vùng cửa sông Tam Quan 300ha và một số ao hồ nước ngọt... là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. Hiện đã có 2.648ha mặt nước nuôi tôm. Theo quy hoạch của ngành thủy sản, đến năm 2005 ổn định diện tích nuôi tôm, cua vào khoảng 5.000ha; sản lượng tôm nuôi thu hoạch khoảng 5.000-6000 tấn/năm; kết hợp với sản lượng hải sản đánh bắt, đây sẽ là nguồn nguyên liệu phong phú cho công nghiệp chế biến thủy, hải sản.
Bình Định có 04 sông lớn là sông Kôn, sông Lại Giang, sông La Tinh và sông Hà Thanh, hiện có khoảng 135 hồ tự nhiên và nhân tạo với tổng diện tích 38.000ha chuyên dùng để cung cấp nước cho các loại cây trồng. Hệ thống mạng lưới các sông suối tập trung nhiều ở miền núi tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thủy lợi và thủy điện; tổng trữ lượng nước khoảng 5,2 tỷ m3; tiềm năng thủy điện khoảng 182,4 triệu kW. Bình Định đã xây dựng và thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 có xét đến tới 2015 với mục tiêu 100% số xã có điện, trong đó 97% số xã được cấp điện lưới quốc gia, 98% số thôn có điện. Những năm qua đã tranh thủ nguồn vốn WB đầu tư trung áp, hạ áp, đến nay 100% xã có điện lưới (trừ xã đảo Nhơn Châu) và có trên 99% số hộ dùng điện. Thực hiện việc chuyển đổi mô hình, cấp phép hoạt động điện lực, vận hành lưới điện hạ thế an toàn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng điện, giảm tổn thất điện năng, đảm bảo giá bán điện đến hộ dân nông thôn.
Nhà máy nước Quy Nhơn được đầu tư nâng cấp có tổng công suất 45.000 m3/ngày đêm (sẽ tiếp tục tăng lên 48.000 m3/ngày đêm), hiện nay đã cấp nước cho hơn 90% dân số và các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP Quy Nhơn và một phần Khu kinh tế Nhơn Hội. Công suất cấp nước cho Khu công nghiệp Phú Tài: 8.500 m3/ngày đêm. Đang xây dựng công trình cấp nước cho Khu kinh tế Nhơn Hội: 12.000 m3/ngày đêm (giai đoạn 1). Đang hoàn thiện dự án cấp nước cho 9 thị trấn trong tỉnh với công suất 21.300 m3/ngày đêm.
Diện tích rừng hiện có trên 207.370ha. Trong đó rừng tự nhiên là 154.390ha, rừng trồng là 52.980ha (rừng sản xuất là 34.624ha); những năm gần đây đã khai thác khoảng từ 6.000- 8.000m3 gỗ (góp phần đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến gỗ xuất khẩu và tiêu thụ trong tỉnh khoảng 200.000m3). Ngoài ra, dưới tán rừng còn có song mây, lá nón, bời lời, các loại lâm sản khác... là nguồn nguyên liệu phục vụ cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiêu dùng... Ngoài ra, đất đồi núi chưa sử dụng trên 205.200ha, có thể phát triển trồng rừng nguyên liệu hoặc trồng cây công nghiệp phục vụ cho công nghiệp chế biến lâm sản.
Về tiềm năng khoáng sản: Trên địa bàn tỉnh có nhiều loại khoáng sản quý hiếm như đá granite ước tính khoảng 700 triệu m3 (trong đó có các loại đá cao cấp như: Granosinite màu đỏ, Biotite hạt thể màu vàng... với trữ lượng khoảng 500 triệu m3 tập trung nhiều ở An Nhơn, Tuy Phước, Quy Nhơn…); quặng sa khoáng Titan trữ lượng khoảng 2,5 triệu tấn Ilmenite nằm dọc theo bờ biển (tập trung ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ và xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn). Lớn nhất là mỏ sa khoáng Đề Gi có trữ lượng trên 1,5 triệu tấn, hiện đang được khai thác và tuyển tinh để xuất khẩu (100.000-120.000 tấn quy Ilmenite/năm). Các mỏ vàng tập trung phân bố ở các khu vực Vĩnh Kim, Vạn Hội, Kim Sơn, Tiên Thuận, trong đó mỏ Tiên Thuận được đánh giá là có tiềm năng lớn nhất; mỏ Bauxit Kon Hà Nừng thuộc trên địa bàn 02 tỉnh Bình Định và Gia Lai hiện đang được lập dự án khả thi thăm dò, khai thác. Ngoài ra, còn có các mỏ cao lanh, đất sét (tập trung ở các huyện Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn) trữ lượng đã thăm dò khoảng 24 triệu m3; đủ để phục vụ cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (gạch ngói, gạch ceramic...) trên địa bàn tỉnh.
Bình Định có 5 điểm nước suối khoáng nóng, trong đó điểm nước khoáng Phước Mỹ có chất lượng nước cao để sản xuất nước giải khát; điểm nước nóng Hội Vân đã được khai thác sử dụng từ năm 1976, được đánh giá các tiêu chuẩn đặc hiệu chữa bệnh và có thể dùng để phát triển điện địa nhiệt…
Hiện nay, Bình Định đã và đang tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ đầu tư xây dựng theo quy hoạch 8 KCN (chưa tính các KCN trong KKT Nhơn Hội) với tổng diện tích quy hoạch là 1.761 ha, 37 cụm công nghiệp với tổng diện tích 1.519,37 ha, đặc biệt là Khu kinh tế Nhơn Hội (12.000 ha, trong đó có 1.300 ha khu công nghiệp); tập trung xây dựng Thành phố Quy Nhơn (đô thị loại I thuộc tỉnh) trở thành trung tâm tăng trưởng phía Nam của vùng và đầu mối giao thông phục vụ trực tiếp cho khu vực miền Trung - Tây Nguyên; xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng lớn để gắn kết với các khu vực lân cận theo trục Bắc - Nam và Đông Tây; phát triển các ngành kinh tế trọng điểm mà tỉnh có lợi thế là công nghiệp chế biến lâm - nông - thuỷ sản, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, giày da, may mặc, cơ khí, cảng biển nước sâu, sản xuất lắp ráp đồ điện, điện tử, sản xuất điện, phát triển du lịch, dịch vụ hàng hải, thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bưu chính, viễn thông....
Trong điều kiện kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn, ngân sách còn hạn chế nhưng các lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn được chăm lo tốt hơn, góp phần thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, thông tin – tuyên truyền, báo chí, phát thanh - truyền hìnhtiếp tục được phát huy phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và từng bước xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao của một số môn có thế mạnh của tỉnh như võ thuật, điền kinh, bơi lội, bóng đá… Hoạt động du lịch của Bình Định cũng hết sức sôi động. Số khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng tại Bình Định ngày càng tăng. Một số doanh nghiệp tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng phục vụ, đẩy mạnh nối kết tour du lịch với các tỉnh trong và ngoài nước.
Hoạt động văn hoá thông tin đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ của nhân dân, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống được chú trọng. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được tiếp tục phát triển, hầu hết địa bàn dân cư được phủ sóng phát thanh và truyền hình. Mạng B­­ưu chính tiếp tục đảm bảo cung cấp các dịch vụ và đáp ứng kịp thời nhu cầu về chuyển phát thư­­, báo, các loại công văn giấy tờ, b­­ưu phẩm, b­­ưu kiện cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức và nhân dân; tỷ lệ xã có báo trong ngày khoảng 96%.
Giáo dục - đào tạo - dạy nghề phát triển mạnh về cơ sở vật chất, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực. Toàn tỉnh có 50 trường THPT, 142 trường THCS, 242 trường tiểu học và 192 trường mầm non, với gần 350 ngàn học sinh; có 1 trung tâm GDTX cấp tỉnh và 10 trung tâm GDTX-HN, 4 trung tâm ngoại ngữ, tin học và 5 cơ sở tin học. Hệ thống trung tâm học tập cộng đồng được xây dựng và hoạt động ngày càng năng động. Tỉnh ta đã được Bộ GD-ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ năm 1998, đạt phổ cập THCS năm 2004, đạt chuẩn tiểu học đúng độ tuổi vào tháng 12.2005.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ đã tích cực triển khai tốt công tác y tế dự phòng, kịp thời triển khai các biện pháp khẩn cấp phòng chống dịch bệnh nguy hiểm, không để xảy ra dịch bệnh lớn; công tác phòng chống dịch trên địa bàn tỉnh được quan tâm chỉ đạo và giám sát chặt chẽ. Thực hiện tốt việc khoanh vùng dịch, tuyên truyền vận động vệ sinh môi trường tại cộng đồng; chủ động điều tra, giám sát dịch tễ, nhất là các dịch bệnh mới và nguy hiểm. Chuẩn bị sẵn sàng thuốc, hóa chất, phương tiện, nhân lực và chủ động tích cực trong công tác phòng chống dịch trong khắc phục hậu quả lũ lụt. Tăng cường công tác khám chữa bệnh, nâng cao y đức, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ bệnh nhân gắn với nâng cao chất lượng chuyên môn, nâng cấp trang thiết bị. Đến nay đã có 152/159 trạm y tế có bác sỹ (133 xã có bác sỹ tại chỗ, 19 xã tăng cường) đạt tỷ lệ 95,6%, vượt 0,6% so với kế hoạch. Thường xuyên đẩy mạnh công tác tư vấn về chăm sóc sức khoẻ sinh sản và phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. Thực hiện tốt Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em; tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 17,27%, vượt 0,73% so với kế hoạch.
Hoạt động khoa học và công nghệ tập trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được ứng dụng đem lại hiệu quả thiết thực như giống mới, kỹ thuật canh tác phòng trừ dịch, hại tổng hợp, thay đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng. Nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ trên một số lĩnh vực công nghệ sinh học, kiểm định, đo lường chất lượng sản phẩm, hàng hóa có cố gắng phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Với các điều kiện địa lý kinh tế, hạ tầng kỹ thuật cùng các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế- xã hội, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp, Bình Định có đủ điều kiện để phát triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng trong tương lai./.
Ban biên tập (tổng hợp)
VĂN HÓA BÌNH ĐỊNH THỰC TRẠNG VÀ TƯƠNG LAI
Bình Định có một mạch nguồn văn hóa rất xa xưa, nếu nói phía Bắc có nền văn hóa Đông Sơn, phía Nam có nền văn hóa Óc Eo thì Bình Định, trung điểm của khu vực miền Trung có nền văn hóa Sa Huỳnh và nền văn hóa Chămpa nổi tiếng. Thừa hưởng một mạch nguồn văn hóa phải nói là hết sức đồ sộ và cổ xưa, trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước văn hóa Bình Định vừa lan tỏa vừa tiếp thu những giá trị của các nền văn hóa khác để bồi đắp, làm phong phú cho mình.

Người Bình Định rất đổi tự hào và luôn có ý thức bảo tồn, lưu giữ và phát huy vốn văn hóa truyền thống của ông cha để lại, làm giàu cho cuộc sống hôm nay. Ai đã một lần đến Bình Định chắc không bao giờ quên những ngọn Tháp Chămpa cổ kính, xây dựng cách đây hàng mấy trăm năm nhưng vẫn ngạo nghễ Trơ gan cùng tuế nguyệt, đẹp đến ngây ngất bởi lối kiến trúc tinh xảo và chứa đựng nhiều huyền bí. Và trong cái nền của văn hóa - văn minh cổ xưa ấy, đất Bình Định luôn luôn là nơi phát tích những dòng, những trào lưu văn hóa hết sức độc đáo. Có nhiều ý kiến cho rằng nghệ thuật tuồng đạt đến trình độ cổ điển, là vốn quý của dân tộc đã phát triển rực rỡ trên mảnh đất Bình Định gắn với tên tuổi nhà soạn tuồng xuất sắc Đào Tấn.
Dưới thời khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, ba anh em họ Nguyễn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sau khi quét sạch thù trong, giặc ngoài đã xây dựng nền văn hóa Tây Sơn với tư cách như một cuộc cách mạng về văn hóa, trong đó đề cao chữ Nôm mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển đi liền với chủ quyền và độc lập dân tộc. Đầu thế kỷ XX trong dòng thơ văn tiền chiến 1930 – 1945 với phong trào thơ mới, Bình Định cũng được đánh giá là nơi bùng phát một trào lưu sáng tác cùng với những thi hào xuất sắc như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Cù Huy Cận… Trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, văn hóa Bình Định cũng góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng quê hương đất nước. Còn nhớ, những năm tháng hào hùng đó, cùng với phong trào Tiếng hát át tiếng bom, tiếng loa hòa tiếng súng của cả nước, Ca kịch bài chòi và tuồng Bình Định đã từng vang lên khắp vùng căn cứ kháng chiến và cả trong vùng địch hậu qua làn sóng phát thanh của Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam, cổ vũ và nuôi dưỡng những tâm hồn kháng chiến, đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc v.v. 

Những nét chấm phá của văn hóa Bình Định đã qua là như vậy nhưng những gì của văn hóa Bình Định cho hôm nay và ngày mai là hết sức quan trọng, cần phải được định ra cho văn hóa một hướng đi phù hợp với quy luật phát triển xã hội, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bởi vì nói đến văn hóa tuy là động lực phát triển kinh tế - xã hội nhưng văn hóa lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, cho nên đặt vấn đề văn hóa Bình Định với cái nhìn tương lai thì văn hóa Bình Định cũng chịu sự ảnh hưởng của nền kinh tế của tỉnh; vì vậy nhận định văn hóa Bình Định đi tới đâu, diện mạo như thế nào trong tương lai là hết sức cần thiết. Thực ra, những vấn đề về văn hóa của Bình Định mang tính chất chung nhất đã được định hướng trong các Nghị quyết về văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà gần nhất, cụ thể nhất là Nghị quyết Hội nghị lần 5 của Ban chấp hành TW Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cụ thể hóa của Nghị quyết này, UBND tỉnh Bình Định đã ban hành Đề án chiến lược phát triển văn hóa thông tin đến năm 2010 và hàng loạt Đề án khác nhằm thúc đẩy,cởi trói cho văn hóa - nghệ thuật phát triển. Có thể nói hàng loạt các Chính sách, Đề án mới về văn hóa - nghệ thuật được ban hành đã khuyến khích rất nhiều cho văn hóa Bình Định phát triển; đó là những cái gậy để các nhà làm văn hóa đề ra cho mình một hướng đi cụ thể, thiết thực theo hướng bảo đảm cho văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. 

Nhìn một cách tổng quan thì văn hóa Bình Định không nằm ngòai định hướng chung của văn hóa Việt Nam hoạt động trong cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khi đặt vấn đề cụ thể của hướng đi nào để văn hóa Bình Định đi tới tương lai chắc chắn phải dựa vào đặc điểm của vùng miền và thế mạnh Bình Định có. Văn hóa Bình Định muốn có một cuộc bứt phá ngoạn mục thì phải bám sát vào cội rễ của văn hóa truyền thống vốn rất phong phú và đa dạng, bởi đây là cái nền vững chắc nhất. Phát triển văn hóa Bình Định, trước hết có lẽ phải đi từ hệ thống di tích lịch sử văn hóa. Nghĩa là phải biết phát huy thế mạnh của các di tích này để khai thác, giới thiệu những giá trị của chúng ra bên ngoài. Theo thống kê chưa đầy đủ, Bình Định hiện nay có 260 điểm di tích và danh thắng đang được quy hoạch. Trong số này, đến nay có trên 30 di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng, khoảng trên 50 di tích được UBND tỉnh công nhận, còn lại đang được khảo sát, xây dựng hồ sơ để xác định mức độ giá trị của từng di tích, ứng với cấp nào thì cấp đó công nhận. Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Định chứa đựng tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân Bình Định, phổ biến nhất là các nhóm: di tích về văn hóa Chămpa xưa, di tích về Tây Sơn - Nguyễn Huệ, di tích về kháng Pháp và Cách mạng, di tích kháng chiến chống Mỹ và di tích  thắng cảnh - danh lam. 

Dòng văn hóa phi vật thể ở Bình Định vô cùng phong phú như: Hoạt động lễ hội, hát bội (tuồng), nhạc võ Tây Sơn, ca kịch bài chòi, múa hát bá trạo của cư dân miền biển… là những món ăn tinh thần đặc sắc không những đối với nhân dân Bình Định mà nó còn là đặc sản  để giới thiệu ra ngoài tỉnh và khách quốc tế. Các lễ hội mang tính chất truyền thống và đậm chất dân gian nếu được duy trì, phát huy cũng sẽ là bộ mặt văn hóa tương lai của Bình Định như: Lễ hội chiến thắng Đống Đa (Tây Sơn), Lễ hội cầu ngư (các xã ven biển), Lễ hội chợ Gò (Tuy Phước), Lễ hội văn hóa - thể thao miền núi, Lễ hội văn hóa - thể thao miền biển… và vô số các lễ hội mang tính chất tín ngưỡng và giàu tính nhân văn của ba dân tộc thiểu số miền núi: Bana, Chăm, H’re sống trên đất Bình Định là mạch nguồn bồi đắp nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Và dĩ nhiên các loại hình văn hóa kể trên phải được nâng cao, cải biên cho phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ mới.

Văn học dân gian và văn  học bác học ở Bình Định cũng là một thế mạnh trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Điều đó được chứng minh đội ngũ sáng tác hiện nay ở Bình Định ngày một đông, các lứa tuổi đều có; những năm qua nhiều tác phẩm của họ đạt các giải cao trên nhiều lĩnh vực từ: mĩ thuật, hội họa, thơ, nhạc cho đến nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống. Văn học dân gian vẫn còn đây những nghệ nhân, những lớp kế tiếp nối bước ông cha giữ gìn những câu hát đối đáp, những  miếng biểu diễn tuồng hay, những bài dân ca và hát bài chòi cổ, cùng với những trò chơi dân gian trong các lễ hội, những phong tục tập quán tốt đẹp của người Bình Định mãi mãi điểm tô cho bộ mặt văn hóa Bình Định.

Văn hóa Bình Định tương lai còn biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các vùng miền  trong cả nước và nhân loại; sở dĩ đề cao việc tiếp thu cái hay, cái đẹp của văn hóa các vùng khác cũng là yêu cầu không thể thiếu ở bất cứ một dòng văn hóa nào khi muốn tồn tại và phát triển. Văn hóa Bình Định có hội nhập với thế giới bên ngoài hay không thì yếu tố tiếp thu, bồi đắp, tiếp biến làm phong phú cho mình là rất quan trọng. Trong thế giới của thời kỳ đại công nghiệp, văn hóa Bình Định không những vừa giữ cho mình một nét riêng như Huế có ca múa Cung đình, đồng bằng Bắc bộ có chèo, Nam bộ có cải lương, Tây nguyên đàn T’rưng v.v. mà còn phải bảo đảm sự hòa đồng trong nền văn hóa đa sắc màu nhưng thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.

Tuy nhiên, để có một vùng văn hóa phát triển, Bình Định cũng đang gặp nhiều khó khăn thử thách. Đó là những mặt trái của cơ chế thị trường, một khi phải hạn chế những tư tưởng đề cao đồng tiền và danh lợi hoặc thương mại hóa văn hóa. Những khó khăn thử thách này, thực tế những năm vừa qua, Bình Định cũng đã gặp phải và đang cố gắng hạn chế không để chúng  làm cản trở trong sự phát triển chung của văn hóa Bình Định.

Ngày nay với các chính sách chiêu hiền đãi sĩ của UBND tỉnh, tầng lớp trí thức, đội ngũ làm công tác văn hóa - nghệ thuật ở Bình Định ngày một trưởng thành. Đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tạo nên vóc dáng văn hóa Bình Định trong tương lai. Đó sẽ là động lực thúc đẩy một cách trực tiếp cùng cả nước tiến tới xây dựng một nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chuẩn bị cho mình hành trang tốt nhất đi vào thế kỷ XXI .

Ban biên tập (tổng hợp)

LỊCH SỬ BÌNH ĐỊNH
Khác với Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, ở Nam Trung Bộ, loại hình di tích đá cũ vẫn chưa được tìm thấy, mà mới chỉ phát hiện được các di tích đá mới tiếp sau văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, nhưng cũng rất ít. Cho đến nay mới chỉ phát hiện và khai quật được một di chỉ duy nhất thuộc giai đoạn này ở ven biển tỉnh Quảng Nam. Bình Định cũng là tỉnh nằm trong dải đất Nam Trung Bộ, nhưng cũng  chưa thấy có di tích nào thuộc giai đoạn sơ kỳ đá mới, mà mới chỉ phát hiện được di tích ở giai đoạn hậu kỳ đá mới và những hiện vật mang đặc trưng của giai đoạn này là một vài chiếc rìu bôn phát hiện được một cách ngẫu nhiên ở khu vực Hoài Nhơn và Vân Canh, phát hiện này chưa được thẩm định nghiên cứu. Cho nên, có thể nói văn hóa thời tiền sử và sơ sử Bình Định chỉ, có từ giai đoạn sơ kỳ đến hậu kỳ trong giai đoạn kim khí. Đại diện cho nền văn hóa trong giai đoạn này là “Văn hoá Sa Huỳnh”.
Từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVII, trên dải đất miền Trung Việt Nam đã hình thành một Nhà nước Cổ đại, đó là Nhà nước Chămpa. Nhà nước Chămpa được xây dựng trên một nền tảng được kế thừa thành tựu văn hóa Sa Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác trong khu vực. Dân tộc Chăm trong suốt 16 thế kỷ, khởi nguồn từ năm 192 và kết thúc vai trò lịch sử của nó đã để lại một nền văn hóa riêng, độc đáo, góp phần làm giàu kho tàng văn hóa của nhân loại và cũng như cộng đồng các dân tộc Việt Nam sau này.
Bình Định nằm ở trung tâm của dải đất miền Trung với gần 5 thế kỷ giữ vai trò trung tâm của đất nước, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, nhưng văn hóa Chămpa ở đây vẫn phát triển đến khi vùng đất này mất vai trò trung tâm của nó, dấu tích văn hóa còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng không thể bỏ qua với những người nghiên cứu về văn hóa Chămpa nói chung và giai đoạn Vijaya nói riêng.
Từ năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho lập phủ Hoài Nhơn -lãnh thổ chỉ đến đèo Cù Mông: "Phủ Hoài Nhơn lệ vào Quảng Nam thừa tuyên, nhưng từ  núi Cù Mông về nam vẫn là người Man, người Lạo ở, chưa có thì giờ để kinh lý đến".
Sau khi trở về kinh đô Thăng Long, tháng 7 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành mới chiếm đặt Quảng Nam Thừa tuyên  và vệ Thăng Hoa, đặt 3 ty để trông coi việc dân, việc nước ở Quảng Nam Thừa tuyên.   
Các làng xã từ đó cũng được hình thành. Lúc mới thành lập, 3 huyện của phủ Hoài Nhơn có 33 xã: Bồng Sơn:7 xã, Phù Ly: 8 xã, Tuy Viễn: 18 xã.
Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên Nam dư hạ tập cho biết: dưới thời Hồng Đức, phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và hơn 100 xã: huyện Bồng Sơn có 7 tổng, 32 xã; huyện Phù Ly có 6 tổng, 60 xã; huyện Tuy Viễn có 6 tổng...
Tháng 8 năm Mậu Ngọ (1498), nhà Lê cho đặt các sở hiệu của 3 vệ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn thuộc đô ty Quảng Nam.
Sau một thế kỷ mở đất, người Việt đã vào lập làng ở các vùng đất của phủ Hoài Nhơn nay là tỉnh Bình Định.
Các chúa Nguyễn xuất hiện  trong lịch sử Việt Nam lúc đầu gắn với vùng đất Thuận Hoá, sau đó là Quảng Nam rồi phát triển lập nên xứ Đàng Trong.
Tháng 11 năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn nhậm Thuận Hoá. Năm 1570, vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn thủ Nghệ An. Chúa Nguyễn Hoàng được kiêm lãnh hai xứ Thuận Hoá, Quảng Nam. Xứ Quảng Nam vào thời điểm Nguyễn Hoàng cai trị có 3 phủ, 9 huyện; phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang. Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Chúa Nguyễn Hoàng đeo ấn Tổng trấn tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa.
Để nắm thêm tình hình phủ Hoài Nhơn, năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho mời khám lý phủ Hoài Nhơn Trần Đức Hoà (bấy giờ gọi là Cống quận công, con của Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân - Phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết kiến. Trần Đức Hoà được chúa đãi rất hậu, sau đó, chúa trở về Thuận Hoá.
Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn.
Năm 1651, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn.
Đàng Trong thế kỷ XVII là nạn nhân của sự bột phát khốc liệt của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Để tồn tại trong thế đối trọng với Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải ra sức mở mang phát triển lãnh thổ và kinh tế. Chiến tranh chấm dứt (1672), Đàng Trong khẳng định được mình qua những thập kỷ lớn mạnh, trưởng thành và thử thách. Các chúa Nguyễn đã thắng khi chặn được quân Trịnh với sức áp đảo từ phía bắc Sông Gianh, thu phục được người Miên, người Hoa để mở cõi về phía nam và đưa dân vào sinh sống, làm ăn ở vùng Đồng Nai, Gia Định. Nhưng các chúa Nguyễn cũng chuẩn bị đương đầu với một nguy cơ mới nảy sinh trong lòng xã hội Đàng Trong, đó là các cuộc khởi nghĩa của người nông dân - vốn là nạn nhân của chế độ phong kiến. Họ là những di dân vào Thuận- Quảng làm ăn nên đã đồng tình với các chúa Nguyễn, đánh Trịnh để bảo vệ quê hương, bảo vệ thành quả lao động và cuộc sống của mình. Sau chiến tranh, các chúa Nguyễn tiếp tục gia tăng cường độ bóc lột qua các chính sách thuế má, phu dịch để xây dựng dinh phủ, nuôi sống bộ máy cai trị; một  bộ phận quan chức trở nên nhũng lạm, xa hoa, xã hội với nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Phủ Quy Nhơn là một trong những nơi chịu áp bức bóc lột nặng nề nhất. Nông dân, thương nhân, các dân tộc ít người đều căm phẫn tột độ. Năm 1695, một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng Phú đã liên kết với thương nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh thuyền, vũ khí khởi nghĩa chống chúa Nguyễn. Thế kỷ XVIII, cuộc khởi nghĩa của Lía ở phủ Quy Nhơn đã nói lên một khí thế đấu tranh quyết liệt của người nông dân chống địa chủ và cường quyền áp bức. Đó là khúc nhạc dạo đầu của bản anh hùng ca hoành tráng của các thủ lĩnh nông dân Tây Sơn khi Nguyễn Nhạc đã tụ nghĩa ở đất Tây Sơn với những người có nghĩa khí, chống áp bức đã dấy lên cuộc khởi nghĩa (1771) làm rung chuyển cả cơ đồ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Nguyễn Nhạc đã thành công hơn Lía và các thủ lĩnh nông dân khác ở Đàng Ngoài khi chọn được căn cứ địa ở vùng Tây Sơn thượng đạo an toàn, bí mật, vững chắc, được nhiều tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Nông dân nghèo, hào phú, thương nhân, các dân tộc ít người... ra sức ủng hộ. Nguyễn Nhạc có nghệ thuật thu phục lòng người, có nghĩa cử với dân nghèo nên đã  đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi có ý nghĩa trong buổi đầu của phong trào Tây Sơn.
Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn mở rộng căn cứ  xuống vùng Tây Sơn hạ đạo, lấy ấp Kiên Thành, sinh quán các thủ lĩnh Tây Sơn làm đại bản doanh. Năm đó, Nguyễn Nhạc quyết định cho nghĩa quân đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, nay ở  Châu Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Nhờ mưu  lược của Giáo Hiến, mạo hiểm của Nguyễn Nhạc, sự đồng lòng của các tướng lĩnh và nghĩa quân, Nguyễn Nhạc đã cho nghĩa quân đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành trốn. Nguyễn Nhạc cho nghĩa quân đánh chiếm kho Càn Dương và Đạm Thủy. Phủ Quy Nhơn hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.
Quân Tây Sơn chọn màu đỏ làm cờ nghĩa, lấy dân nghèo làm lực lượng đấu tranh và mục tiêu phục vụ, lấy công bằng xã hội làm phương châm. Đối tượng cuộc đấu tranh là bọn địa chủ, quan lại bóc lột hà hiếp nhân dân. Quân Tây Sơn đến đâu các hào kiệt đều theo về, dân chúng nô nức hưởng ứng, uy thế ngày mỗi tăng.        
Bình Định là quê hương của các lãnh tụ Tây Sơn, là căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa, là nơi xuất phát phong trào rồi trưởng thành, phát triển ra toàn quốc, là đất Kinh đô Hoàng đế Thái Đức và là chiến trường ác liệt dài ngày giữa quân đội Tây Sơn thời Cảnh Thịnh với quân Nguyễn Ánh.
Trong 32 năm (1771-1802), nhân dân Bình Định đã theo Tây Sơn: là lãnh tụ, là tướng lĩnh cao cấp, là quan chức, binh sĩ cùng mọi tầng lớp nhân dân đã cống hiến hết mình cho trang sử hào hùng của dân tộc thời Tây Sơn. Trí tuệ, tài năng, sức người, sức của của nhân dân Bình Định đã đóng góp cho sự nghiệp Tây Sơn là vô bờ bến, sử sách không thể ghi hết và cũng chưa ai có điều kiện biên chép, tổng kết. Nên cố gắng này chỉ là mở đầu cho một việc làm to lớn, lâu dài, khó khăn và nhiều ý nghĩa nói trên.
Trong buổi đầu khởi nghĩa, sự đóng góp của nhân dân phủ Quy Nhơn vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của phong trào Tây Sơn ở một chặng đường khó khăn nhất, bước ngoặt đưa phong trào Tây Sơn phát triển ra cả xứ Đàng Trong.
Sau này, phong trào Tây Sơn phát triển ra toàn quốc cùng với thiên tài  Nguyễn Huệ, những người con ưu tú của phủ Quy Nhơn cũng góp phần quan trọng tạo nên các chiến công đánh Nguyễn, đánh Xiêm ở Gia Định, diệt Trịnh lật đổ nhà Lê ở Phú Xuân-Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược vào xuân Kỷ Dậu (1789).
Dưới triều Nguyễn, Bình Định là một trọng trấn ở phía nam Kinh thành. Điều đó được thể  hiện trong tổ chức hành chính và cai trị; chế độ quan lại và phòng vệ ở miền núi và vùng biển; tổ chức giáo dục, thi cử văn lẫn võ cho cả khu vực của các tỉnh từ Quảng Ngãi trở vào Bình Thuận.
Vốn là vùng đất đối trọng của triều Nguyễn nên các vua Nguyễn có chính sách cai trị ở Bình Định rất hà khắc, cứng rắn nhằm ngăn chặn các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Nhưng cũng không đè bẹp được ý chí, tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân bị áp bức trong xã hội: hậu duệ của triều Tây Sơn, nông dân, dân tộc ít người, tiểu quan chức...
Năm 1799, sau khi chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh cho đổi làm thành Bình Định, sau đó đặt dinh Bình Định (1802). Năm 1819, đổi tên ấp Tây Sơn - nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành ấp An Tây.
Dưới triều Nguyễn, tình hình xã hội ở Bình Định luôn biểu hiện những mâu thuẫn và đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhất là phát hiện các hậu duệ nhà Tây Sơn, các vua Gia Long, Minh Mạng đã dùng những biện pháp trừng trị tàn ác. Bình Định luôn là mối bận tâm của triều đình Huế.
Bình Định là vùng "trọng điểm bình định" của triều Nguyễn đối với nhà Tây Sơn, nhưng triều Nguyễn cũng phải thừa nhận tính khách quan về một vùng đất có vị trí chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục đối với các tỉnh miền Trung thuở đó, nên các vua Gia Long, Minh Mạng một mặt ra sức trấn áp nhưng mặt khác lại mị dân thể hiện trong các chiếu dụ, ban bố trong quan lại và nhân dân. Thiết lập phủ Quy Nhơn, dinh Bình Định thời Gia Long, tổ chức lập lại địa bạ thời Minh Mạng  với ý định làm thí điểm cho cả nước. Triều Nguyễn  còn tổ chức trường thi hương và mở trường thi võ tại Bình Định để tuyển chọn nhân tài cho đất nước.
Dưới thời Nguyễn cũng hình thành đô thị Quy Nhơn và trở thành trung tâm kinh tế của tỉnh Bình Định trong thế kỷ XIX; là xu thế phát triển trong thời Pháp thuộc, có tác dụng to lớn trong thế kỷ XX
Hòa chung vào công cuộc chuẩn bị chống ngoại xâm của cả nước, nhân dân Bình Định hăng hái theo lệnh triều đình Huế để tăng cường và chấn chỉnh lực lượng quân sự địa phương. Những thanh niên, trai tráng khỏe mạnh, kể cả những người theo đạo Gia tô cũng được thu nhận, còn những người già yếu bị thải hồi khỏi quân ngũ. Các trạm, sở, phủ, huyện được triều đình tiếp tế, cung ứng thêm vũ khí và lương thực. Các đồn, bảo, tỉnh thành được điều động thêm lực lượng và tăng cường luyện tập quân sự. Sơn phòng Nghĩa Định được khẩn trương củng cố và trở thành địa điểm tập trung binh lực, lương thảo và đạn dược từ ở địa phương. Triều đình còn điều động về Bình Định những quan lại có năng lực để lãnh đạo cuộc chiến đấu ở đây.
Ngoài ra, ở vùng ven biển Bình Định, quân triều đình cũng chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu. Các cửa biển Tam Quan, An Dũ (thuộc huyện Hoài Nhơn), Hà Ra (Phù Mỹ), Đề Gi (Phù Cát)... được tăng cường quân lính đồn trú và các đội thủy binh... nhằm ngăn chặn quân Pháp từ biển đánh vào. Ở Bình Định, có quân của cai cơ Tăng Doãn Văn, người làng An Thường, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, vốn tham gia trong lực lượng của Trần Xuân Soạn đóng ở Bắc Kỳ, được Tôn Thất Thuyết cử về giữ chức cai cơ chỉ huy đội binh đóng ở đồn An Dũ. Trong đội quân của Tăng Doãn Văn còn rất nhiều văn nhân và võ sư yêu nước như Đội Dung (người Phù Mỹ), Lê Thức (người Hoài Ân), Lê Đạt (người Hoài Nhơn)...
Trong vòng 3 năm (1883-1885), ở Bình Định đã huy động được một đạo quân ứng nghĩa hùng hậu. Ngoài quân sơn phòng, quân đồn trú trấn giữ các cửa biển, lực lượng thân binh bảo vệ tỉnh thành, còn có lực lượng kháng chiến của nhân dân, đó là đội quân hương binh, dân dũng. Cho đến khi phong trào Cần Vương bùng nổ, lực lượng tham gia kháng chiến chống Pháp ở Bình Định đã khá đông đảo, có tới hàng chục ngàn người cầm vũ khí hưởng ứng lời kêu gọi chống Pháp của vua Hàm Nghi.
Mai Xuân Thưởng chọn vùng núi Lộc Đỗng (phía tây Phú Phong, nay thuộc thôn Phú Hiệp, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) làm căn cứ kháng chiến. Ông cho truyền hịch khắp nơi, vận động các tầng lớp nhân dân tập hợp về Lộc Đỗng cùng lo việc đại nghĩa “Cần Vương”. Hưởng ứng lời kêu gọi, các nhà hào phú tình nguyện đóng góp lương thực để chi dùng trong quân, trai tráng rủ nhau kéo về Lộc Đỗng đầu quân ngày một thêm đông. Võ tướng, văn thân như các ông Bùi Điền (người Phù Mỹ), Nguyễn Hóa, Trần Trung và Trần Nhã (người Bình Khê), Nguyễn Can, Nguyễn Trọng Trì và Đặng Thành Tích (người An Nhơn) đều ra giúp. Lực lượng kháng chiến suy tôn Mai Xuân Thưởng làm Bình Tây Đại Nguyên Soái. Từ đây, lực lượng kháng chiến ở Bình Định đã thống nhất thành một mối, phong trào vững mạnh bước vào giai đoạn mới lập nên nhiều chiến công rực rỡ.
Trước sự lớn mạnh của phong trào Cần Vương Bình Định (làm chủ hầu hết địa bàn Bình Định đồng thời mở rộng ảnh hưởng đến các tỉnh trung và nam Trung Kỳ), triều đình Huế chỉ còn cách xin thực dân Pháp đưa viện binh từ Sài Gòn ra Bình Định xúc tiến đàn áp phong trào.
Đàn áp xong phong trào Cần Vương ở Bình Định, thực dân Pháp cùng quân đội triều đình tay sai củng cố lại chính quyền ở các tỉnh tả trực kỳ, bố phòng cẩn mật đề phòng những cuộc khởi nghĩa mới có thể xảy ra.
Ở Bình Định, sau những nỗ lực chiến đấu chống Pháp đến cùng , đa số nhân dân - những người ủng hộ và tham gia tích cực vào hai cuộc khởi nghĩa trên - đã bị thực dân Pháp và vua quan nhà Nguyễn đàn áp, khủng bố rất tàn khốc. Thế nhưng, người dân Bình Định vẫn không nản lòng, thối chí, trái lại khi tổ chức Duy Tân Hội được sáng lập và phát huy ảnh hưởng của Hội trên khắp ba miền đất nước, nhân dân Bình Định vẫn nhiệt tình hăng hái tham gia, và họ tự hào được đóng góp cho phong trào một người con ưu tú của quê hương, người anh hùng Tăng Bạt Hổ (Tăng Doãn Văn).
Trong lúc phong trào Đông Du mà Tăng Bạt Hổgópphần sáng lập đang khởi động mạnh, thì ngày 27.8.1907, Tăng Bạt Hổđột ngột quađời. Sựnghiệp cứu nước cứu dân đang còn dởdang lại được những đồng chí của ôngtiếp nối. Phong trào ngày càng phát triển và cóảnh hưởng rộng lớn trong dưluậnxã hội. Thực dân Pháp và triều đình Huếhốt hoảng đối phó. Một mặt chúng khủngbố, ngăn cấm phong trào Đông Du hoạt động, một mặt thỏa hiệp, nhường cho Nhậtmột sốquyền lợi buôn bán ởĐông Dương, với điều kiện chính phủNhật phải trụcxuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi đất Nhật. Vì vậy, cuối năm 1908,phong trào Đông Du tan rã.
Phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân tuy khác nhau về phương thức hành động, nhưng cũng cùng một con đường cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Vì thế, mục tiêu công kích của phong trào Duy Tân cũng lại là vua quan phong kiến thối nát, những phong tục tập quán và những tư tưởng đạo đức phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, nhằm vận động cải cách văn hóa, xã hội gắn liền với việc vận động lòng yêu nước, căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang, phong trào đã tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản với các yêu cầu: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", hô hào chú trọng thực nghiệp, lập hội kinh doanh, mở trường dạy học và tuyên truyền đời sống mới".
Sau hàng loạt những cuộc bạo động vũ trang chống Pháp cuối thế kỷ XIX không thành, khi ngọn gió dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn từ bên ngoài dồn dập tràn vào đầu thế kỷ XX, nhân dân Bình Định háo hức tiếp nhận một phương thức hoạt động cứu nước mới. Người châm ngòi cho phong trào yêu nước theo phương thức mới bùng nổ ở Bình Định chính là Phan Châu Trinh và những sáng lập viên của phong trào Duy Tân, như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp...
Ngày 6.4.1908, nhân dân Bình Định nổi dậy biểu tình chống thuế. Sự tham gia của Hồ Sĩ Tạo đã lôi cuốn nhiều nhân sĩ Bình Định hưởng ứng và tham gia đông đảo, uy tín của phong trào ngày càng tăng. Nông dân các phủ, huyện lớp do tổng, lý sở tại chỉ dẫn, lớp tự động rầm rộ kéo về tỉnh thành ngày một thêm đông.
Cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Bình Định năm 1908 đã bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Nhiều người con yêu nước của quê hương hoặc bị giết, hoặc bị đày ra Côn Đảo. Thế nhưng, người dân Bình Định chưa bao giờ chịu khuất phục. Trái lại, ngọn lửa căm thù vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng mỗi người dân Bình Định, và chỉ 8 năm sau, ngọn lửa đấu tranh ấy lại có dịp bùng lên mạnh mẽ.
Trong những năm 1925-1927, hàng loạt cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định càng diễn ra sôi nổi.
Những cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân Bình Định khiến nhà cầm quyền Pháp và tay sai hốt hoảng.
Tháng 2.1928, được sự giúp đỡ của Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Nam Kỳ tại Sài Gòn mà đại diện là Phan Trọng Quảng, Chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên ở Bình Định được thành lập tại nhà ông Tôn Chất ở thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn).                                                                                                                
Sự ra đời của chi bộ Cửu Lợi đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong phong trào cách mạng Bình Định, đưa phong trào đi theo con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin. Để có thể liên lạc thuận lợi với tổ chức Thanh Niên Quảng Ngãi, chi bộ Cửu Lợi chọn công ty Kim Thạch ở Sa Huỳnh (Đức Phổ, Quảng Ngãi), một hãng buôn do một số chí sĩ, thương nhân Hoài Nhơn và Sa Huỳnh lập ra từ năm 1927, làm cơ sở liên lạc ở hai vùng.
Từ chi bộ đầu tiên ở Cửu Lợi, đến cuối năm 1928, đã có thêm các chi bộ mới như chi bộ Thanh niên An Đỗ (Hoài Sơn), Tài Lương (Hoài Thanh), Dĩnh Thạnh (Tam Quan). Từ các chi bộ này, cơ sở Thanh niên nhanh chóng phát triển ra các làng Đại Hóa, An Thái (Tam Quan), Thành Sơn, An Sơn (Hoài Châu), Châu Đê, Chương Hòa (Hoài Châu Bắc), Tường Sơn (Hoài Sơn), Thanh Xuân (Hoài Hương), Bồng Sơn và Thiết  Đính... Đến cuối năm 1928, số hội viên Thanh niên Hoài Nhơn lên đến gần 40 người, và hàng trăm hội viên quần chúng tích cực được tập hợp vào các hội: Nông dân, Phụ nữ, Thiếu niên, Cứu tế đỏ... Giữa năm 1928, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Hoài Nhơn đặt được mối liên lạc chính thức với Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Trung Kỳ và Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Quảng Ngãi1. Những biến chuyển đó đã tạo điều kiện chín muồi tiến tới thành lập Huyện bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội để lãnh đạo chung phong trào. Tháng 12.1928, Huyện bộ Hoài Nhơn được thành lập và Nguyễn Trân được bầu làm bí thư.
Sau khi tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đẩy mạnh hoạt động ở Hoài Nhơn được một thời gian ngắn, thì tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng cũng bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của mình vào Bình Định. Giữa năm 1928, Ngô Đức Đệ, nguyên Ủy viên Tỉnh bộ Tân Việt Hà Tĩnh được Tổng bộ Tân Việt cách mạng Đảng cử vào Bình Định xây dựng cơ sở Đảng. Tại đây, tính đến cuối năm 1928, Ngô Đức Đệ đã xây dựng được những cơ sở Tân Việt đầu tiên ở nhà máy Đèn, hãng Vận tải đường thủy, ga ra Trần Sanh Thại, trường Quốc học (Quy Nhơn) và một số cơ sở được xây dựng tại trường tiểu học và công sở ở các huyện An Nhơn, Phù Mỹ, Bồng Sơn...
Cuối năm 1928, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và chỉ đạo phong trào toàn khu vực Trung Trung Bộ, Ban liên tỉnh Tứ Định của Tân Việt cách mạng Đảng được thành lập (gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Kon Tum) do Ngô Đức Đệ làm bí thư.
Trong 2 năm 1928-1929, hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân yêu nước vào mặt trận cách mạng và phát động được quần chúng ở một số vùng như Trà Quang (Mỹ Quang, Phù Mỹ), Hảo Thiện, Cửu Lợi, An Đỗ (Hoài Nhơn)…
Như vậy, cho đến cuối năm 1928, ở Bình Định đã xuất hiện hai tổ chức tiền thân của Đảng: Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Cửu Lợi, Hoài Nhơn (ra đời đầu năm 1928) và Tân Việt ở Quy Nhơn (năm 1928). Hai tổ chức này đã giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt phong trào yêu nước cách mạng ở Bình Định nhanh chóng chuyển từ  khuynh hướng tư sản sang một khuynh hướng mới tiến bộ - khuynh hướng vô sản, và định hướng dần vào quỹ đạo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tạo tiền đề cần thiết cho phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định tiếp tục phát triển như vũ bão dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Tháng 10.1930, hai tổ chức Đảng của huyện Hoài Nhơn và thành phố Quy Nhơn chính thức nối liên lạc với nhau, thống nhất các kế hoạch hành động. Sự ra đời của các tổ chức Đảng thành phố Quy Nhơn và huyện Hoài Nhơn không chỉ đánh dấu bước ngoặt lịch sử quyết định của phong trào yêu nước của nhân dân Bình Định, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh của nhân các huyện tiến lên.
Nhìn chung, trong những năm 1932-1935, phong trào cách mạng ở Bình Định gặp nhiều khó khăn và tổn thất, nhưng với một sự cố gắng vượt bậc, những tổ chức cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh của quần chúng từng bước được phục hồi và có những bước tiến triển đáng kể, bắt đầu bước vào thời kỳ đấu tranh mới: đòi dân sinh, dân chủ.
Phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ trong thời kỳ 1936-1939 ở Bình Định tuy bị thực dân Pháp tìm mọi cách cản trở, khủng bố, nhưng chưa bao giờ nhân dân Bình Định nản lòng, lùi bước, ngược lại phong trào ngày càng sôi động và gặt hái được nhiều kết quả có ý nghĩa. Sự lớn mạnh, trưởng hành của phong trào là những chuẩn bị thiết thực cho nhân dân Bình Định  cùng nhân dân cả nước bước vào một thời kỳ mới với những thắng lợi mới: Thời kỳ trực tiếp đấu tranh cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 3.9.1945, 30.000 đại biểu Việt Minh toàn tỉnh và đồng bào các giới, dân tộc, các tôn giáo cùng nhân dân thành phố Quy Nhơn, với hơn 1.000 tự vệ cứu quốc và tự vệ sắt tham gia cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa toàn tỉnh tại sân vận động Quy Nhơn. Tại đây, Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời mới của tỉnh Bình Định, lấy tên là tỉnh Tăng Bạt Hổ, được thành lập, do đồng chí Trần Quang Khanh làm Chủ tịch.
Như vậy, sau 15 năm hoạt động kiên cường, không mệt mỏi, Đảng bộ và nhân dân Bình Định đã làm nên một cơn bão táp cách mạng vĩ đại, cuốn trôi bộ máy chính quyền thống trị của đế quốc, phát xít và phong kiến. Thắng lợi này đã kết thúc chặng đường đấu tranh đầy gian khổ nhưng quang vinh của nhân dân Bình Định, đồng thời mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Suốt chặng đường lịch sử 60 năm (1885-1945), phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Bình Định trải qua ba giai đoạn với màu sắc, quan điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương chính trị khác nhau: ngọn cờ Cần Vương chống Pháp của giai cấp phong kiến cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu nước mang màu sắc dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, cao trào giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ 1930 đến 1945. Đây là những làn sóng nối tiếp nhau dồn dập đánh vào thành trì của chế độ thực dân-phong kiến, mà lớp sóng sau mạnh mẽ hơn lớp sóng trước gấp bội lần.
Tuy các phong trào đấu tranh yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX đều bị thực dân Pháp đàn áp và dìm trong bể máu, nhưng nhân dân Bình Định vẫn không hề chịu khuất phục. Từ khi có ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga soi đường, đặc biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Bình Định đã cùng nhân dân toàn tỉnh liên tục vùng dậy đấu tranh kiên cường trong suốt 15 năm trời. Trải qua những thử thách từ cao trào 1930-1931, giai đoạn hồi phục lực lượng 1932-1935, đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939, rồi cao trào cứu nước giải phóng dân tộc 1939-1945, cuối cùng Đảng bộ và nhân dân Bình Định cũng hoàn thành mục tiêu độc lập - tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.
Chín năm kháng chiến lâu dài, gian khổ và anh dũng đã kết thúc thắng lợi vẻ vang. Nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã trải qua ba thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy cam go, nhưng vô cùng sôi nổi và mãnh liệt:
- Mười sáu tháng (từ 8.1945 đến 12.1946) xây dựng chế độ mới, cuộc sống mới, bảo vệ chính quyền cách mạng và chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài.
- Năm năm (1947-1952) xây dựng và bảo vệ vùng tự do, thực hiện nhiệm vụ phối hợp với các chiến trường.
- Giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (1953-1954) thực hiện chiến cuộc Đông Xuân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt để giành thắng lợi hoàn toàn.
Bình Định là một tỉnh có vị trí chiến lược cả về kinh tế và quốc phòng. Ở đây có một hệ thống đường giao thông phong phú: đường chiến lược 19, đường sắt xuyên Việt và Quốc lộ 1, có thành phố cảng Quy Nhơn và sân bay. Những thế núi hiểm trở chẳng những có giá trị chiến thuật, chiến dịch mà cả về chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài.
Từ những yếu tố  "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", chiến trường Bình Định là địa bàn vừa thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển, vừa thuận lợi cho tác chiến tập trung của các binh đoàn chủ lực. Và cũng chính vì vị trí chiến lược, đặc điểm của địa bàn mà thực dân Pháp xem Bình Định là mục tiêu trọng điểm để tiến công đánh chiếm vùng tự do của ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên đất Bình Định là thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành, bắt nguồn từ đường lối chiến lược, phương châm, phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng, kết hợp sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại trong cuộc chiến tranh nhân dân mang tính cách và bản sắc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy khu V, chín năm kháng chiến đầy hi sinh, gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Bình Định đã đạt được những kết quả đáng tự hào: Đó là đã đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch, giữ vững Bình Định là tỉnh tự do trong suốt thời gian kháng chiến, xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thành tỉnh có tiềm lực lớn mạnh của Liên khu V trong chiến tranh. Đảng bộ và nhân dân Bình Định cũng đã huy động một khối lượng khá lớn về nhân tài vật lực vừa cho công cuộc kháng chiến của tỉnh, vừa làm nhiệm vụ hậu phương đối với cả chiến trường Liên khu V; đồng thời Đảng bộ đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, Đảng viên kiên cường, xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Những thành quả trên thể hiện Bình Định đã biết vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, vừa chiến đấu, vừa xây dựng để hoàn thành tốt nhiệm vụ như lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với đặc điểm là một tỉnh thuộc vùng tự do, Đảng bộ Bình Định đã biết tập trung xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, bảo đảm cuộc sống cho nhân dân để kháng chiến lâu dài, đồng thời biết động viên sức mạnh tổng hợp nhân tài vật lực cho tiền tuyến, làm tròn nhiệm vụ hậu phương của chiến trường Liên khu V và Tây Nguyên, chi viện cho Lào và Campuchia.
Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong quá trình kháng chiến được khẳng định một cách tuyệt đối trong việc giáo dục, đoàn kết, tổ chức, phát huy sức mạnh quần chúng về mọi mặt quân sự - chính trị - kinh tế. Nó đã được cụ thể hóa bằng những chủ trương, chính sách, việc làm cụ thể của tỉnh, sự sáng tạo trong cả quá trình kháng chiến. Các cấp ủy Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức mà trước hết là xây dựng chi bộ cơ sở vững mạnh.
Bài học quý giá được rút ra từ công tác xây dựng Đảng là bất kỳ ở thời kỳ nào và ở đâu, nếu Đảng biết bám sát dân, sống trong lòng nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, bảo vệ, thì dù gian khổ mấy, cách mạng cũng giành được thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và giữ vững trọn vẹn vùng tự do của Đảng bộ và nhân dân Bình Định là một trang sử vẻ vang trong truyền thống yêu nước và cách mạng lâu dài của nhân dân Bình Định.
Trải qua cuộc chiến đấu một mất một còn, ròng rã  hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lâu dài, khốc liệt, hy sinh gian khổ nhưng rất hào hùng, anh dũng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trực tiếp là Tỉnh ủy Bình Định, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết một lòng phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, của vùng đất “Địa linh nhân liệt”, thượng võ, quật khởi, quê hương của vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Truyền thống đó tiếp tục được nhân lên và phát huy cao độ trong mọi tình huống khó khăn nhất. Quân và dân trong tỉnh đã vượt qua mọi thử thách, chịu dựng mọi ác liệt, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Bác Hồ kính yêu giao phó, góp phần đánh bại các âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt và làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ, kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh có một không hai trong lịch sử. Mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên cạnh truyền  thống yêu nước của nhân dân Bình Định, còn thể hiện sự vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân cách mạng của Đảng vào điều kiện cụ thể từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể ở từng địa phương, địa bàn chiến lược, đánh  đổ từng đối tượng kẻ thù của cách mạng một cách  linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời nắm bắt kịp thời tình hình địch, tình hình quần chúng nhằm khắc phục những khuyết điểm, lệch lạc, không ngừng củng cố và tăng cường xây dựng lực lượng của cách mạng. Coi trọng công tác giáo dục, vận động, tập hợp, đoàn kết, phát huy trí tuệ của quần chúng trong các cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, binh địch vận, xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến, phục vụ chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Bình Định, một lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của toàn dân, là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện về quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, với tinh thần tự lực, tự cường; đồng thời có sự chi viện, hỗ trợ của Trung ương và các tỉnh lân cận và trong cả nước, đặc biệt là Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh kết nghĩa.
     
            Nhìn lại từ quá khứ xa xưa, chúng ta tự hào về Bình Định - nơi sớm  sản sinh ra nền văn hoá  lớn của cư dân cổ Sa Huỳnh, mang đậm nét đặc trưng của thời đại kim khí, đã để lại nhiều di tích phong phú, các công cụ sản xuất bằng đồ sắt, đồ trang sức bằng đá quý và thuỷ tinh đặc sắc v.v... những trống đồng Đông Sơn cũng đã được tìm thấy ở đây chứng tỏ thời đó đã có sự  giao lưu văn hoá rộng lớn giữa các vùng của đất nước.
Bình Định còn là nơi chứng kiến sự phát triển, lụi tàn của quốc gia cổ Chămpa - một vương quốc có nhiều thăng trầm song cũng không tránh khỏi số phận tồn vongcủa lịch sử. Cái tên Chămpa chỉ còn như một tên riêng của một dân tộc Chăm gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Vương quốc Chămpa xưa, nay còn để lại những di tích khảo cổ học, nhiều thành cổ, điêu khắc cổ và kiến trúc đền tháp nổi tiếng, cổ kính, uy nghi. Các di tích được các nhà khảo cổ phát hiện ở nhiều nơi trên đất Bình Định phong phú, đa dạng về chủng loại, tinh xảo về kỹ thuật, gồm các đồ gốm sứ phục vụ cho cuộc sống cộng đồng, giao lưu, trao đổi hàng hoá ngoài khu vực và các nước phụ cận.
Bình Định có thành Đồ Bàn tồn tại gần 5 thế kỷ mà sau đó là thành Hoàng Đế thời Tây Sơn - Nguyễn Nhạc.
Thế kỷ XV, đất nước Chămpa đầy biến động bởi sự nội biến bên trong v xung đột bên ngoài. Vua Lê Thánh Tông đã có thời cơ để chấm dứt nạn tranh chấp này vào năm 1471. Từ đó, đất Bình Định trở thành một bộ phận của nước Đại Việt.
Nhà Lê đã cho lập Thừa tuyên Quảng Nam tạo cho phủ Quy Nhơn thời chúa Nguyễn một nội lực kinh tế phát triển, một thế đứng vững chắc để mở nước về phía nam.
Với một tầm nhìn chiến lược, với chính sách thông thoáng trong việc thu nạp hiền tài (trường hợp của Lương Văn Chánh, Đào Duy Từ...) cùng với việc khuyến nông, các chúa Nguyễn đã có chính sách tích cực trong việc di dân, khai phá, lập làng, tạo cho phủ  Quy Nhơn hình thnh nhiều làng xã trù phú, canh tác nông nghiệp phát triển. Phủ Hoài Nhơn (Quy Nhơn) trở thành bệ phóng cho công cuộc mở đất vào Phú Yên và từ đây, thế Thuận - Quảng vững mạnh về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, đủ sức đương đầu với quân Trịnh ở phía bắc.
Bên cạnh những yếu tố tích cực trên của phủ Quy Nhơnthờicác chúa Nguyễn, nhưng dần dần do sự phân hoá bất công trong xã hội ngày càng tăng khiến cho mâu thuẫn ngày một gay gắt giữa tầng lớp lao động và giai cấp thống trị, đã nảy sinh những cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ hà khắc đương thời. Mở đầu là những cuộc nổi dậy của Linh Vương và Quảng Phú (1695) rồi của Lía, sau đó các cuộc khởi nghĩa có tổ chức, quy mô thành phong trào rộng lớn, đại diện cho giai cấp nông dân Việt Nam đứng lên chống cường quyền, áp bức; nhất là khi có giặc ngoại xâm đã nhanh chóng trở thành một phong trào giải phóng dân tộc lan toả khắp đất nước. Đó là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn xuất phát từ vùng núi An Khê của phủ Quy Nhơn.
Dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ với đội ngũ tướng lĩnh ti ba, trí dũng, kiên cường, cùng sự đóng góp của nhân dân Bình Định và nhân dân cả nước đã dập tắt nạn cát cứ, nội chiến Trịnh - Nguyễn kéo dài trên hai thế kỷ; đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở phía nam, 29 vạn quân Thanh xâm lược ở phía bắc, giải phóng dân tộc, lập lại nền độc lập thống nhất đất nước. 
Thời đại Tây Sơn với những chiến công hiển hách, vang dội làm nhiều nước trên thế giới phải kính nể. Đó là niềm tự hào của nhân dân Bình Định - quê hương của phong trào Tây Sơn, của các anh hùng áo vải cờ đào và của mỗi một người dân Việt Nam. Những đóng góp, cống hiến của thời đại Tây Sơn còn để lại cho muôn đời sau về binh pháp thiên tài, các bài võ, đường quyền, những áng văn thơ tuyệt tác, một kho tàng văn hoá chữ Nôm đồ sộ và văn học dân gian phong phú mà chúng ta mãi trân trọng, giữ gìn.
Dưới thời Nguyễn, Bình Định được triều đình Huế rất chú tâm về việc tổ chức cai trị cũng như về kinh tế, xã hội, nhất là vào đầu thời kì vua Nguyễn. Vì nơi đây - vốn là đất của triều Tây Sơn, đã diễn ra cuộc chiến tranh khốc liệt lâu ngày, bị tàn phá nặng nề và là nơi cịn tồn tại nhiều mu thuẫn nn một mặt cần trấn áp nhưng mặt khác cũng phải thu phục lòng dân. Vì vậy, Bình Định được coi là trọng trấn của Triều đình, rồi trở thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung ương Huế (1832).
Với việc lập lại địa bạ vào năm 1839 đã loé lên một niềm tin đấu tranh về quyền lợi chính đáng của người dân Bình Định đối với Triều đình mà đòi hỏi Nhà nước cần phải chia sẻ, quan tâm để giảm bớt sự bất công trong các tầng lớp địa chủ và dân nghèo, trong đó có sự đóng góp của Tổng đốc Võ Xuân Cẩn và các quan lại địa phương. Tuy cuộc cải cách này cuối cùng thất bại nhưng đã để lại bài học kinh nghiệm về chính sách ruộng đất và đấu tranh của nhân dân  cho cc  đời sau.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, Quy Nhơn được chúng xem là cảng khẩu quan trọng của miền Trung và Tây Nguyên để thực hiện chính sách khai thác thuộc địa. Từ giữathế kỷ XIX, Bình Định bắt đầu chuyển mình để phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và trào lưu yêu nước diễn ra mạnh mẽ khắp nơi trong tỉnh, đặc biệt khi đô thị Quy Nhơn ra đời.
Với phong trào Cần Vương, nhân dân Bình Định đã hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, đứng lên đánh giặc cứu nước. Phong trào kháng Pháp ở Bình Định diễn ra mạnh mẽ lan rộng trong cả tỉnh và liên kết với các tỉnh lân cận, đã làm cho bộ máy cai trị của Pháp và tay sai ở Bình Định khốn đốn, lung lay.
Tuy các cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định bị đàn áp khốc liệt nhưng đã khơi dậy trong quần chúng một truyền thống quật cường, một tinh thần yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc cao độ đã buộc địch phải nhiều phen khốn quẫn, lao đao.
Phong trào Cách mạng Việt Nam đã chuyển mình và khởi sắc từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930.
Các tổ chức Đảng Cộng Sản ở Bình Định tại các huyện, xã, thị xã Quy Nhơn đã nắm bắt phong trào, lập các cơ sở Cách mạng lúc hoạt động công khai, lúc rút vào hoạt động bí mật, đã lãnh đạo phong trào Cách mạng của tỉnh giành được nhiều thắng lợi trong đấu tranh chính trị, vũ trang... đi đến giành được chính quyền về tay nhân dân vào Tháng 8 năm 1945.
Cùng với tình hình chung của Cách mạng  toàn quốc, Cách mạng Bình Định cũng trải qua các thời kỳ gian khổ và cực kỳ ác liệt trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954).
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh tỉnh, các đoàn thể yêu nước được ra đời để đáp ứng tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, quyết tâm đẩy lùi nạn giặc đói, giặc dốt, chiến thắng giặc ngoại xâm, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng quê hương, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc.
Đồng thời với cuộc kháng chiến trường kỳ đánh Pháp, nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh cũng còn phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để vươn lên đạt được những thành tựu đáng kể trong các mặt: xây dựng nền công nghiệp, nông nghiệp, khôi phục và phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, giao thông... Tất cả những điều đó đã góp phần đập tan các kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, giành lại độc lập cho quê hương, đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi vẻ vang vào năm 1954 đã là một minh chứng về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự mưu trí, quả cảm và sự hy sinh vô bờ bến của bao chiến sĩ cách mạng và xương máu của nhân dân Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng; là kết tinh của truyền thống  yêu nước của ông cha ta từ bao đời nay đã làm nên sức mạnh tổng hợp "nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước", đem lại độc lập - tự do - hạnh phúc cho nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Bình Định lại một lần nữa phải ra sức đương đầu với những âm mưu thâm độc, những cuộc càn quét đẫm máu của địch nhằm chống phá các cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang của ta. Mặc dù vậy, nhân dân và các lực lượng quân sự Bình Định đã phối hợp với toàn miền đấu tranh bằng ba mũi giáp công, kiên quyết đập tan các chiến lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng quê hương, hoà trong ca khúc khải hoàn: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" vào mùa Xuân năm 1975.
Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc ta. Ba mươi năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ với bao mất mát hy sinh lớn lao mà nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Bình Định đã cống hiến hết mình về sức người, sức của cho sự  đấu tranh vì độc lập - tự do của dân tộc.
Hoà chung niềm vui của đất nước, sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Bình Định đã hăng hái bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng.
Từ sau năm 1975 đến nay, thực sự Bình Định đã đổi đời, thực sự đổi mới từ trong nếp nghĩ kinh tế, làm ăn đến tư duy cuộc sống, tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội của tỉnh nhà.
Diện mạo quê hương đã đổi thay, bộ máy Nhà nước các cấp của tỉnh đã kiện toàn, hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang phát triển làm thay da đổi thịt cuộc sống của nhân dân. Các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế... ngày một ổn định, pht triển và nâng cao; mức sống của người dân ngày được cải thiện.
Chính sách của Nhà nước đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa ngày một quan tâm đúng mức để tiến tới lập thế cân bằng giữa miền núi và miền xuôi.
Công cuộc hiện đại hoá đang được hình thành dần ở nơi đây, đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một tốt đẹp hơn. Nếp sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng ngày càng phong phú đã tạo nên một sự chuyển biến tích cực trong xu thế phát triển của xã hội Bình Định. Từ đó mở ra một cuộc sống đầy đủ hứa hẹn ở tương lai: ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng và văn minh mà nhân dân Bình Định bằng truyền thống lịch sử của mình có quyền tin tưởng và quyền được hưởng những thành tựu đó, vì đã góp phần cống hiến sức lực của mình trong quá khứ và trong hiện tại.
Ban biên tập (tổng hợp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét