Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

chim trĩ giống , bán chim trĩ thịt gia re , trĩ đỏ, xanh , bảy 7 màu cung cấp ở tại bến tre , ban chim tri thit , cung cap chim tri giong o tai ben tre giá rẻ

Bến Tre


Bí thư Tỉnh uỷ khảo sát tình hình sản xuất hoa kiểng tại huyện Chợ Lách
Người viết: Việt Cường   
17/12/2012
Ngày 13/12/2012, ông Nguyễn Thành Phong – Bí thư Tỉnh ủy cùng với lãnh đạo huyện Chợ Lách đến xã Vĩnh Thành khảo sát tình hình sản xuất hoa kiểng phục vụ Tết Quý Tỵ năm 2013.
Huyện Chợ Lách hiện có gần 6.000 hộ sản xuất hoa kiểng, trong đó có 2.700 hộ chuyên sản xuất hoa kiểng trên diện tích 65ha, tập trung chủ yếu ở các xã Vĩnh Thành, Long Thới, Tân Thiềng, Phú Sơn, Vĩnh Hòa và Hưng Khánh Trung B.
Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Thành Phong tham quan một hộ trồng kiểng mai vàng. (Ảnh: V.C)


Đặc biệt, trên địa bàn có 17 làng nghề cây giống hoa kiểng và 193 nghệ nhân đã được công nhận. Năm nay, huyện Chợ Lách sản xuất khoảng 10 triệu sản phẩm hoa kiểng các loại như mai vàng, tắc kiểng, kiểng thú, bonsai, kiểng lá màu, kiểng công trình, chủ yếu cung ứng cho thị trường Tết Quý Tỵ năm 2012. Thị trường tiêu thụ chủ yếu ở TP.HCM và các tỉnh trong khu vực.
Sau khi khảo sát thực tế tại một số mô hình trồng hoa kiểng ở địa phương, đoàn đã có buổi gặp gỡ với các hộ trồng hoa kiểng tiêu biểu trong huyện để tìm hiểu tình hình sản xuất hoa kiểng phục vụ Tết Nguyên đán sắp đến.
Bà con kiến nghị các ngành chức năng hỗ trợ thuê mặt bằng bán hoa tết có vị trí thuận lợi hơn, thêm thời hạn cho vay và giảm lãi suất vay vốn, đảm bảo an ninh trật tự tại nơi bán hoa tết, đầu tư xây dựng các tuyến đê bao thủy lợi, hình thành vùng sản xuất nguyên liệu tập trung.
Các kiến nghị của bà con đã được chính quyền địa phương và cơ quan chức năng giải trình đầy đủ và thỏa đáng.
Phát biểu tại buổi gặp gỡ, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thành Phong nhấn mạnh vai trò của mối liên kết giữa các nhà vườn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nêu cao vai trò chủ động của người dân trong xây dựng đê bao thủy lợi. Đồng thời ghi nhận kiến nghị về việc thêm thời hạn cho vay và giảm lãi suất cho vay vốn, sẽ có hướng giải quyết thích hợp.


Thường trực Tỉnh ủy Bến Tre làm việc đầu năm với các Huyện ủy, Thành ủy
Người viết: Hoàng Chương   
21/02/2013
Trong niềm hân hoan phấn khởi mừng đất nước đổi mới, mừng Đảng quang vinh, mừng xuân Quý Tỵ, và trong không khí còn âm hưởng của những ngày xuân, ngày Tết cổ truyền dân tộc, trong những ngày đầu làm việc của năm mới, Thường trực Tỉnh ủy Bến Tre đã tổ chức gặp gỡ và làm việc với Ban Thường vụ (BTV) các Huyện ủy, Thành ủy để nghe báo cáo về tình hình, kết quả hai năm rưỡi triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ của huyện, thành phố nhiệm kỳ 2010 – 2015.
Theo chương trình, nội dung làm việc của Thường trực Tỉnh ủy, mỗi Huyện ủy, Thành ủy sẽ làm việc trong một buổi. Ngày 19/02/2013 là buổi gặp gỡ làm việc đầu tiên với huyện Châu Thành; các huyện, thành phố còn lại tiếp tục các buổi làm việc các ngày tiếp theo.
Quang cảnh Thường trực Tỉnh ủy làm việc với BTV Huyện ủy Mỏ Cày Bắc. (Ảnh: H.C)
Đồng chí Nguyễn Thành Phong – UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí trong BTV Tỉnh ủy chủ trì các buổi làm việc với BTV các Huyện ủy, Thành ủy; đại diện lãnh đạo của Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh; các ban Đảng tỉnh; lãnh đạo các sở: Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải, Giáo dục và Đào tạo, Lao động – Thương binh và Xã hội, Y tế, cùng tham dự các buổi làm việc với Thường trực Tỉnh ủy.
Tại các buổi làm việc, đại biểu được nghe báo cáo của BTV các Huyện ủy, Thành ủy về những kết quả hoạt động của hệ thống chính trị, hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh, những khuyết điểm, hạn chế trong quá trình hoạt động hơn hai năm qua và phương hướng, những giải pháp trong thời gian tới, cũng như những kiến nghị, đề xuất của mỗi huyện, thành phố.
Ngoài nội dung làm việc vừa nêu, Thường trực Tỉnh ủy cũng đã làm việc với lãnh đạo các Huyện ủy, Thành ủy về công tác cán bộ, việc rà soát, điều chỉnh, sắp xếp, bố trí cán bộ Quy hoạch A1, bổ sung Quy hoạch A2 của nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Trong các buổi làm việc, BTV các Huyện ủy, Thành ủy đã nghe các ý kiến phát biểu, góp ý, trao đổi của các ban, ngành tỉnh để các Huyện ủy, Thành ủy tiếp tục bổ sung đưa vào phương hướng và các giải pháp để tiếp tục triển khai thực hiện từ nay đến cuối nhiệm kỳ.
Chỉ đạo kết luận tại các buổi làm việc của từng Huyện ủy, Thành ủy, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã phát biểu động viên, chia sẻ, khích lệ với những nỗ lực, chung sức, đồng lòng, phấn đấu đạt được một số thành tích đáng kể trên một số lĩnh vực của các huyện, thành phố.
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy còn phát biểu chỉ đạo với các huyện, thành phố như: Tập thể BTV các Huyện ủy, Thành ủy dành thời gian thảo luận, đánh giá những thuận lợi, khó khăn… và có những giải pháp đột phá, khả thi trong các hoạt động, để thực hiện tốt Nghị quyết tại địa phương mình; xác định thế mạnh kinh tế địa phương nuôi trồng cây, con gì cho phù hợp, có hiệu quả kinh tế cao…; tăng cường công tác kêu gọi đầu tư phát triển trên các lĩnh vực phù hợp với địa phương mình; tạo điều kiện đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động thương mại, dịch vụ, khu – cụm công nghiệp; lưu ý gìn giữ nâng cao các tiêu chí văn hóa, không bằng lòng với kết quả đạt được, các danh hiệu đạt được phải thực chất, không chạy theo thành tích; BTV, Ban chấp hành mỗi Huyện ủy, Thành ủy chủ động, sáng tạo, tích cực hơn nữa, đoàn kết thực hiện nhiệm vụ đúng quy chế, quy định; phát huy vai trò cá nhân gương mẫu, người nêu gương và xây dựng Đảng, chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Có thể nói, những buổi làm việc với BTV từng Huyện ủy, Thành ủy đã mang lại hiệu quả thiết thực, giúp cho các ngành nắm bắt thông tin, tình hình hoạt động trên các lĩnh vực, tiến độ thực hiện các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, huyện, thành phố. Qua đó các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở cùng cộng đồng trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ các huyện, thành phố góp phần thực hiện đạt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và nhất là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Bến Tre lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010 – 2015).

Tư tưởng Bác Hồ với công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân
Người viết: Văn Tuyên   
23/02/2013
Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam ta, vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Đảng ta, dân tộc ta, danh nhân văn hóa thế giới, Bác có tấm lòng bao la, cao cả, sâu sắc đối với con người, nhất là với nhân dân ta. Chính vì thế mà trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác luôn dành hết tình thương yêu và sự quan tâm đặc biệt đối với nhân dân trên mọi lĩnh vực về cả vật chất lẫn tinh thần, Bác nói: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn”. Và Bác đã căn dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Cán bộ y tế Bệnh viện Đa khoa Châu Thành đón tiếp bệnh nhân ân cần - ảnh Trúc Lan
Trên lĩnh vực y tế và sức khỏe, Bác luôn đặc biệt quan tâm và nêu lên hàng đầu với phương châm “phòng bệnh là chính”. Sinh thời Bác căn dặn: “... Phải dạy đồng bào vệ sinh thường thức”. Người còn nói: “Mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là góp phần làm cho cả nước mạnh khỏe”; “... Việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công”. Người còn chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần sức khỏe mới thành công”.
Chính vì quan tâm đặc biệt đến công tác sức khỏe và để đồng bào ta có sức khỏe tốt, ngay trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trước những công việc cấp bách, bộn bề, Bác vẫn nghĩ đến việc xây dựng “Đời sống mới” và Người viết “Sạch sẽ là một phần của đời sống mới, sạch sẽ thì dân ít ốm, khỏe mạnh thì làm được việc, làm được việc thì có ăn, xem đó thì biết rằng ai cũng nên làm đời sống mới”. Bác nói “mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên, luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi, ngày nào tôi cũng tập”. Bác còn cho rằng vấn đề sức khỏe có mối quan hệ trực tiếp với cuộc kháng chiến và kiến quốc. Bác nói: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng gần thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Vì lẽ đó mà đối với tầng lớp nào, lứa tuổi nào, Bác cũng luôn dặn dò mọi người phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe. Đối với các cháu thiếu nhi, Bác khuyên “Phải siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang”.
Quan tâm và chăm lo đến sức khỏe cho nhân dân, năm 1946 Bác đã căn dặn cán bộ y tế: “Đừng có ngại khó ngại khổ. Phải lao mình vào chỗ bẩn để làm cho sạch; phải dấn thân vào chỗ đau khổ để làm giảm bớt đau khổ. Lương y phải như từ mẫu, phải dịu dàng, khiêm tốn, thương yêu đồng bào, không được hách dịch, ban ơn...”.  Và trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc ngày 27/2/1955, Bác viết: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe của đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang". Hay trong thư gửi Hội nghị Quân y, Bác Hồ cũng đã nói: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”.
Lãnh đạo ngành y tế kiểm tra phòng chống dịch sốt xuất huyết, bệnh tay chân miệng. (Ảnh tư liệu)
Bác còn quan tâm đến việc nâng cao trình độ y học của đất nước, để phục vụ ngày càng tốt hơn sức khỏe nhân dân, vì thế Bác kêu gọi sự đoàn kết nỗ lực và đóng góp chung của toàn ngành y tế và Bác nhấn mạnh: “Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân”.
Trong tư tưởng của Bác còn thể hiện rất rõ quan điểm xây dựng một nền y học trên cơ sở kết hợp đông y và tây y. Quan điểm này của Bác Hồ là xuất phát từ thực tiễn lịch sử của đất nước ta. Bác nói: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý hóa về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc”, và “Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc đông và thuốc tây”. Bác cho rằng: “Thuốc tây chữa được nhiều bệnh, nhưng có bệnh chữa không được mà thuốc ta chữa được. Thuốc ta cũng chữa được nhiều bệnh nhưng có bệnh cũng không chữa được. Bên nào cũng có cái ưu điểm, hai cái ưu điểm cộng lại thì chữa bệnh tốt cho đồng bào, cho nhân dân, phục vụ cho xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thầy thuốc tây phải học đông y, thầy thuốc ta cũng phải học thuốc tây... Thầy thuốc ta và thầy thuốc tây đều phục vụ nhân dân, như có hai tay cùng làm việc thì làm việc được tốt. Cho nên phải đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, đoàn kết thuốc ta và thuốc tây thành một khối để chữa bệnh cho đồng bào”.
Quan điểm của Bác về xây dựng nền y tế của nước ta là một nền y tế nhân dân, Bác nói “xây dựng một nền y học của ta” và Bác còn nói với cán bộ y tế phải “giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta”. Trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Bác nói “Phòng bệnh cũng cần thiết như chữa bệnh”. Bác còn nói “Phòng bệnh hơn trị bệnh”. Để chống lại bệnh tật, ốm đau, Bác đặc biệt quan tâm từ những vấn đề rất nhỏ về vệ sinh môi trường như nước sạch, hố xí vệ sinh, diệt ruồi, muỗi…. Người nhấn mạnh “Vệ sinh là yêu nước” và thường xuyên nhắc nhở toàn dân phải giữ gìn vệ sinh. Bác nói: “Mọi người từ già trẻ, trai gái đã là người dân yêu nước đều phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh, giữ gìn sức khỏe”. Ngay cả trong 5 lời dạy của Bác Hồ với thiếu niên, nhi đồng, Bác cũng có câu nói: “… Giữ gìn vệ sinh thật tốt”. Hay lúc sinh thời, Bác vẫn thường xuyên nhắc nhở các cán bộ của Đảng, Nhà nước, các đồng chí chỉ huy quân đội, các cán bộ y tế phải quan tâm chăm sóc sức khỏe cho cụ già, cho trẻ em, cho người nghèo ở vùng xa xôi, hẻo lánh, cho bộ đội và thương binh.
Trang thiết bị và các Bác sĩ thực hiện các ca mổ mắt tại Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu. (Ảnh tư liệu)
Quán triệt tư tưởng của Bác về chăm lo sức khỏe cho nhân dân ta, ngành y tế cách mạng nước ta nói chung đã luôn phấn đấu nêu cao tinh thần yêu nước, tự lực cánh sinh, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi. Có thể nói, ngành y tế nước ta đã trưởng thành trong mưa bom lửa đạn và ngày càng phát triển tiên tiến, hiện đại.
Ngày nay, đất nước ta đã và đang bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, với chủ trương xã hội hóa công tác y tế, với nhiều chế độ, chủ trương thích ứng, phù hợp của Đảng, Nhà nước ta cho mở các cơ sở hoạt động y tế tư nhân, dược tư nhân, mở rộng bảo hiểm y tế, quan tâm đến người nghèo, ngành y tế đã cố gắng hoạt động, vươn lên đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn, càng cao về sức khỏe của các tầng lớp nhân dân.
Đối với tỉnh ta, hòa trong không khí hân hoan phấn khởi cả nước mừng đất nước đổi mới, mừng Đảng quang vinh, mừng xuân Quý Tỵ. Và trong những ngày còn âm hưởng hương hoa của mùa xuân thanh bình, cũng là lúc ngành y tế cả nước rộn ràng  tổ chức kỷ niệm 58 năm ngày “Thầy thuốc Việt Nam 27/2”, chúng ta hãy nhìn lại và điểm qua một số hoạt động mà ngành y tế tỉnh nhà năm qua đã đạt được như:
- Ngành y tế đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch chỉ tiêu đề ra như: giảm tỷ lệ người dân mắc bệnh, giảm thiểu tử vong, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng… và đặc biệt hơn là lần đầu tiên giải ngân đạt 100% theo chỉ tiêu kế hoạch được giao.
- Dự báo được và chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp phòng chống tích cực, do đó một số dịch bệnh như sốt xuất huyết, tay chân miệng, sốt rét, thương hàn… đã được kiểm soát tốt, không bùng phát và lan rộng, hạn chế thấp nhất tỷ lệ mắc và tử vong, đặc biệt không có bệnh dịch tả xảy ra.
- Đội ngũ Bác sĩ Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu không ngừng học tập nâng cao tay nghề và ứng dụng những kỹ thuật tiên tiến hiện đại chuyển giao từ Đề án 1816 của Bộ Y tế đã phẫu thuật thành công một số bệnh như: thoát vị đĩa điệm cột sống, bệnh u phổi và nội soi bệnh bướu cổ đơn thuần.
- Đăng cai thành công 03 hội nghị lớn do Bộ Y tế tổ chức là Hội nghị giao ban và triển khai chiến lược y tế cổ truyền khu vực Tây Thái Bình Dương do PGS. TS Nguyễn Thị Xuyên – Thứ trưởng Bộ Y tế chủ trì; Hội nghị phòng chống HIV/AIDS khu vực Tây Nam Bộ do TS Nguyễn Thanh Long - Thứ trưởng Bộ Y tế chủ trì; Hội nghị Tổng kết chương trình thử nghiệm thành thạo đánh giá liên phòng thí nghiệm năm 2012 của Viện kiểm nghiệm thuốc TP. Hồ Chí Minh chủ trì.
- Lần đầu tiên ngành y tế Bến Tre tổ chức tôn vinh “Thầy thuốc trẻ tài năng và y đức” năm 2012 cho 28 cá nhân.
- 65 cán bộ ngành y tế Bến Tre đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú”. Đây là đợt phong tặng danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú” nhiều nhất trong các năm qua của ngành y tế Bến Tre và cũng là tỉnh có số lượng cao nhất nước.
- Thực hiện chương trình chuẩn quốc gia về cơ sở y tế xã, phường, trong năm 2012, ngành y tế Bến Tre đã xây dựng được 07 trạm y tế với tổng mức đầu tư trên 32 tỷ đồng. Giai đoạn 2013-2015 ngành y tế Bến Tre tiếp tục xây dựng 125 trạm y tế còn lại.
- Đặc biệt, ngày 22/3/2012, Sở Y tế Bến Tre và Sở Thông tin và Truyền thông TP. Hồ Chí Minh, chính thức đưa vào vận hành hệ thống chẩn đoán bệnh từ xa ở Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu; ba bệnh viện lớn TP Hồ Chí Minh hỗ trợ cho Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu là Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Nhi Đồng 1 và Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình. Hệ thống được triển khai dựa trên thiết bị MCU (thiết bị hỗ trợ điều khiển hội nghị truyền hình đa điểm). Nhờ sự hỗ trợ chẩn đoán từ xa mà Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu đã chữa trị thành công một số bệnh cấp cứu nặng.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn lúc nào hết, việc rèn luyện đạo đức, y đức và trách nhiệm nghề nghiệp của người thầy thuốc, người cán bộ ngành y tế phải được đưa lên hàng đầu, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Đồng thời, để xứng đáng với truyền thống tốt đẹp giữa người thầy thuốc và người bệnh theo lời dạy của Bác Hồ: "Lương y phải như từ mẫu". Người thầy thuốc phải lấy người bệnh là trung tâm, coi cứu người bệnh là mục đích hành nghề. Vì vậy, cán bộ y tế phải thương yêu, phải săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. Cán bộ, nhân viên ngành y tê cần tận tâm hơn nữa để giúp nhân dân ta, giúp Đảng ta, Nhà nước ta xây dựng một nền y tế tiên tiến, dân tộc, khoa học, đại chúng gắn với nhu cầu thực tế của nhân dân.
Nhân kỷ niệm 58 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2/1955 – 27/2/2013), hy vọng rằng cán bộ ngành y tế cả nước nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng cần tận tâm hơn nữa với nhân dân, để giúp Đảng, Nhà nước ta xây dựng một nền y tế tiên tiến, dân tộc, khoa học, đại chúng gắn với nhu cầu thực tế của nhân dân. Cần phát huy nhiều hơn nữa về đạo đức, y đức, phẩm chất của người thầy thuốc theo đúng quan điểm mà sinh thời Bác Hồ kính yêu từng nói đó là “Lương y phải như từ mẫu”, nghĩa là “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”; thực hiện tốt 12 điều y đức của ngành đã đề ra; trong điều trị phải tận tình, chu đáo, luôn luôn có mặt ở vị trí công tác, theo dõi chặt chẽ, xử lý kịp thời các tình huống, phải thực hiện được điều như cố Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch đã nói: “Đến, niềm nở tiếp đón. Ở, tận tình chăm sóc. Đi, ân cần dặn dò”; đừng để nhân dân mất lòng tin, ác cảm nơi khám, chữa bệnh.
Toàn thể cán bộ ngành y tế, hãy nhận thức tầm quan trọng của ngành nghề mình chọn, hãy toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Và hãy cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục thực hiện cuộc vận động học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là đối với vấn đề y đức; hãy thấm nhuần quan niệm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã dạy: “Không có nghề nào nhân đạo bằng nghề cứu người. Không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”, và người thầy thuốc phải nhiệt tình, không kể sang hèn, không kể giàu nghèo, phải tôn trọng người bệnh, không được cầu lợi, kể công, không được “đem nhân thuật để làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng mua bán”. 

Thiết thực kỷ niệm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng và Ngày Biên phòng toàn dân
Người viết: Văn Tuyên   
01/03/2013
Ngày 3 tháng 3 hàng năm, cả nước ta nói chung và Bến Tre nói riêng long trọng kỷ niệm, tôn vinh các thế hệ Bộ đội Biên phòng (BĐBP). Đây là một trong những lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng. Họ là những người lính Bộ đội Cụ Hồ thời bình cũng như thời chiến đều chắc tay súng bảo vệ biên giới hải đảo, canh giữ từng tấc đất của Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Những chiến sĩ mang quân hàm xanh này thường xem đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các các dân tộc là anh em ruột thịt.
Nhân kỷ niệm 54 năm ngày truyền thống BĐBP (3/3/1959 - 3/3/2013) và 24 năm “Ngày Biên phòng toàn dân” (3/3/1989 - 3/3/2013), các thế hệ người Việt Nam ta cần hiểu rõ và khẳng định biên giới quốc gia là bộ phận thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại.
Tuần tra bảo vệ chủ quyền biên giới biển Bến Tre. (Ảnh tư liệu)
Tìm hiểu tư liệu lịch sử, ngày 19/11/1958, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) ra Nghị quyết số 58/NQ - TW và ngày 03/3/1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 100/TTg “Về việc thống nhất các đơn vị bộ đội đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị Công an Biên phòng, Cảnh sát Vũ trang thành một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang do Bộ Công an trực tiếp chỉ đạo, quản lý”.
Và kể từ năm 1959 đến nay, ngày 03/3 hàng năm chính thức trở thành Ngày truyền thống của lực lượng CANDVT, nay là Bộ đội Biên phòng, nước ta chính thức có một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng, tập trung thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, gồm 3 cấp: Trung ương có Ban chỉ huy CANDVT và đến tháng 7/1961 đổi tên thành Bộ Tư lệnh CANDVT; cấp tỉnh, thành có Ban chỉ huy CANDVT tỉnh, thành; cấp cơ sở có các đồn biên phòng và đơn vị cơ động.
Cũng vào năm 1959 (ngày 28/3), tại buổi lễ thành lập CANDVT, Bác Hồ đã tới dự, huấn thị và tặng cán bộ, chiến sĩ toàn lực lượng bài thơ:
“Đoàn kết cảnh giác.
Liêm chính, kiệm cần.
Hoàn thành nhiệm vụ.
Khắc phục khó khăn.
Dũng cảm trước địch.
Vì nước quên thân.
Trung thành với Đảng.
Tận tụy với dân”.
Và ngày 02/3/1962, tại Đại hội chiến sĩ thi đua CANDVT toàn quốc lần thứ nhất, Bác Hồ đã biểu dương thành tích và tặng toàn lực lượng bài thơ:
“Non xanh nước biếc trùng trùng
Giữ gìn Tổ quốc ta không ngại ngùng gian lao
Núi cao sự nghiệp càng cao
Biển sâu chí khí ta so vào càng sâu
Thi đua ta quyết giật cờ đầu”.
Những lời dạy của Bác luôn bất hủ và đã trở thành phương châm hành động của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ BĐBP và là những nội dung rất cơ bản của việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và lời dạy của Bác Hồ đối với BĐBP”.
Tặng quà cho hộ nghèo ở xã biên giới biển Bến Tre. (Ảnh tư liệu)
Để phát huy sức mạnh chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và tăng cường thống nhất lãnh đạo các lực lượng vũ trang, ngày 10/10/1979, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 22-NQ/TW chuyển lực lượng CANDVT sang Bộ Quốc phòng thành BĐBP, tiếp tục làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, vùng biển và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trong tình hình cách mạng càng phát triển, thì nhiệm vụ bảo vệ an ninh Quốc gia càng nặng nề, có ý nghĩa chiến lược giữ vững sự ổn định đất nước, nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chủ quyền, giữ vững an ninh các tuyến biên giới, vùng biển càng được đẩy mạnh hơn, ngày 30/11/1987, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết 07-NQ/TW về “Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới”, trong đó quyết định “Chuyển giao BĐBP từ Bộ Quốc phòng sang Bộ Nội vụ trực tiếp phụ trách”.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ. Nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ biên giới và an ninh khu vực biên phòng đang đặt ra những vấn đề mới rất to lớn, nặng nề, toàn diện và phức tạp.
Vì vậy, ngày 08/8/1995 Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết 11-NQ/TW về “Xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới”, trong đó đã quyết định chuyển lực lượng Bộ đội Biên phòng từ Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) sang Bộ Quốc phòng.
Phát huy truyền thống Bộ đội cụ Hồ, người lính mang quân hàm xanh, tại Bến Tre, sau cao trào Đồng khởi năm 1960, cách mạng miền Nam chuyển sang thời kỳ mới, và để giữ vững thành quả cách mạng mới giành được, từng bước đưa phong trào cách mạng phát triển đi lên, cần phải có lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ các lực lượng cách mạng, xây dựng, bảo vệ vùng giải phóng, căn cứ đứng chân của tỉnh, tháng 7/1960, Tỉnh ủy Bến Tre quyết định xây dựng bộ phận chuyên trách, gọi là “Ban bảo vệ an ninh”.
Ngày 20/12/1960, tại căn cứ xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, phân đội An ninh vũ trang tỉnh (tiền thân của BĐBP Bến Tre) được thành lập, làm nhiệm vụ cảnh vệ, cận vệ, bảo vệ cơ quan lãnh đạo tỉnh và các mục tiêu quan trọng trong tỉnh, chiến đấu giữ vững căn cứ, giữ vững đường hành lang liên tỉnh và từ tỉnh xuống huyện.
Trong kháng chiến chống Mỹ tại Bến Tre, chính quyền Mỹ - ngụy thực hiện chính sách cực kỳ vô nhân đạo, phản động đối với nhân dân, như tìm diệt Việt cộng, thi hành luật 10/59, dồn dân vào ấp chiến lược… và đã gây nhiều tổn thất cho ta.
Dù sống và chiến đấu trong hoàn cảnh đầy gian nan, ác liệt, nhung lực lượng An ninh vũ trang tỉnh vẫn giữ vững tấm lòng sắt son, kiên trung với cách mạng, kiên trì bền bỉ bám đất, bám dân, trụ vững giữa lòng địch, gây dựng và mở rộng cơ sở, diệt ác trừ gian, cùng nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc.
Quân y BĐBP khám chữa bệnh cho nhân dân vùng biển Bến Tre. (Ảnh tư liệu)
Với lòng trung thành vô hạn, lực lượng An ninh vũ trang tỉnh đã phối hợp cùng các lực lượng khác kịp thời đánh trả, ngăn chặn nhiều đợt hành quân truy quét của địch vào căn cứ, bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các đồng chí cán bộ lãnh đạo của tỉnh.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với lực lượng Trinh sát vũ trang dũng cảm chiến đấu đánh chiếm nhiều mục tiêu, vị trí chiến lược quan trọng của địch lập nhiều thành tích trong chiến đấu, công tác góp phần tích cực vào cuộc tấn công và nổi dậy của quân, dân tỉnh nhà, giải phóng hoàn toàn Bến Tre.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Tại Bến Tre, lực lượng An ninh vũ trang tỉnh cùng với một Đại đội  CANDVT được điều động từ một số tỉnh ở miền Bắc vào tổ chức thành đơn vị CANDVT tỉnh Bến Tre (nay là BĐBP tỉnh Bến Tre). Với hệ thống đồn, trạm dọc tuyến biên giới 3 huyện duyên hải của tỉnh (Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú) được bố trí triển khai cùng với các đơn vị cơ động thủy, cơ động bộ làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngăn chặn mọi hoạt động phi pháp từ trong nước đi ra và từ bên ngoài xâm nhập vào, bảo vệ môi trường, tài nguyên khoáng sản và chủ quyền an ninh biên giới biển.
Lực lượng BĐBP Bến Tre không những chiến đấu bảo vệ khu vực biên giới biển của tỉnh mà còn thực hiện nghĩa vụ Quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia anh em.
Tháng 2/1979, theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh BĐBP, lực lượng BĐBP tỉnh đã tổ chức một trung đội hành quân có mặt tại chiến trường ngay từ những ngày đầu sau thắng lợi vĩ đại của nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt; phối hợp với các lực lượng chức năng của bạn giải quyết các vấn đề xảy ra trên biên giới, dũng cảm kiên cường giúp bạn chiến đấu, xây dựng cơ sở chính trị, lăn lộn gắn bó với nhân dân ở những nơi khó khăn gian khổ, nguy hiểm, tạo điều kiện giúp bạn xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền, ổn định an ninh trật tự.
Với tấm lòng đoàn kết thủy chung, với tình hữu nghị vô tư trong sáng, lực lượng BĐBP Bến Tre đã để lại những tình cảm sâu sắc, tốt đẹp trong lòng nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.
Chặng đường xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của BĐBP tỉnh Bến Tre là chặng đường của những trang sử hào hùng, oanh liệt, góp phần tô thắm thêm truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam ta. Chặng đường mà bao lớp cán bộ, chiến sĩ BĐBP tỉnh Bến Tre và nhân dân đã vượt qua, đó là một chặng đường của những khó khăn, gian lao, chặng đường của sự hy sinh bằng máu của biết bao thế hệ cha anh ra đi và những sự hy sinh thầm lặng trên những giọt nước mắt của những người vợ, người mẹ bao lần tiễn chồng, tiễn con lên đường rồi chẳng bao giờ gặp lại; chặng đường của sự đùm bọc, che chở, nuôi giấu, gắn bó, giúp đỡ cán bộ của nhân dân quê hương Đồng khởi; chặng đường của những trang lịch sử với biết bao chiến công oanh liệt, những trận đánh làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch để mang lại chiến công hiển hách, mang lại sự hòa bình độc lập hôm nay.
Để phát huy trách nhiệm và sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ biên giới, từ thực tiễn hiệu quả của phong trào nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ biên giới ở các địa phương của cả nước, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập BĐBP (3/3/1959 - 3/3/1989), ngày 22/02/1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 16/HĐBT về lấy ngày 3/3 hàng năm tổ chức “Ngày Biên phòng” trong cả nước (bắt đầu từ ngày 3/3/1989). Trong đó nêu rõ 5 nội dung, yêu cầu của “Ngày Biên phòng” là:
- Nâng cao ý thức cảnh giác, tinh thần trách nhiệm của nhân dân các dân tộc, của cán bộ, nhân dân các cơ quan, đoàn thể ở biên giới làm tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
- Tăng cường đoàn kết, hợp đồng chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau giữa lực lượng Biên phòng và các lực lượng khác.
- Không ngừng củng cố và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới, chống mọi hành vi xâm phạm biên giới của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ trung tâm, đột xuất của địa phương.
- Khen thưởng bằng các hình thức thích hợp các xã và đồng bào có công trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ biên giới.
Tại kỳ họp thứ III, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XI) ngày 17/6/2003 đã thông qua Luật Biên giới quốc gia, trong đó quy định lấy ngày 3/3 hàng năm là “Ngày Biên phòng toàn dân” và nêu nội dung hoạt động “Ngày Biên phòng toàn dân” gồm:
- Giáo dục ý thức pháp luật về biên giới quốc gia, tôn trọng biên giới, chủ quyền lãnh thổ, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, nhân viên cơ quan, tổ chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và của toàn dân; đặc biệt là cán bộ, nhân viên cơ quan, tổ chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, chính quyền và nhân dân khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới.
- Huy động các ngành, các địa phương hướng về biên giới, tích cực tham gia xây dựng tiềm lực về mọi mặt ở khu vực biên giới, tạo ra sức mạnh của toàn dân, giúp đỡ Bộ đội Biên phòng và các đơn vị khác thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan chức năng ở khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
- Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng, phối hợp hai bên biên giới trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và phòng, chống tội phạm.
 Ngày 16/02/1990, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 06/CT về tổ chức “Ngày Biên phòng toàn dân” ở tỉnh Bến Tre. Những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các ban ngành, đoàn thể đã xây dựng các chương trình, kế hoạch tổ chức phong trào quần chúng thực hiện “Ngày Biên phòng toàn dân”; đã huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng sâu rộng trong toàn tỉnh tham gia phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới biển Bến Tre.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) đề ra, và công tác bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới biển đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã tích cực chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh xây dựng các nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo công tác biên phòng và xây dựng lực lượng BĐBP, kế hoạch sử dụng lực lượng bảo vệ vùng biển tỉnh Bến Tre; qua đó tạo ra sức mạnh tổng hợp trong quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới biển của Tổ quốc.
Năm 2012, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã triển khai toàn diện các mặt công tác biên phòng, xây dựng lực lượng mang quân hàm xanh vững mạnh về mọi mặt, thực sự là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền, vùng biển.
Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc diễn biến tình hình khí hậu, giữ vững thông tin liên lạc 2 chiều với ngư dân, phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành chỉ huy tìm kiếm cứu nạn trên biển.
Ba Đồn biên phòng Cửa Đại, Hàm Luông và Cổ Chiên tăng cường tuần tra, kiểm soát, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới biển của tỉnh. Ban Chỉ huy 3 Đồn biên phòng chủ động tham mưu đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vụ việc xảy ra, phối hợp với BĐBP tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang thực hiện có hiệu quả kế hoạch hiệp đồng bảo vệ khu vực giáp giới.
Các đơn vị tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị các xã khu vực biên giới biển vững mạnh về mọi mặt, lấy xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh làm nòng cốt, xây dựng bộ máy chính quyền thực sự của dân, do dân, vì dân làm trọng tâm, tham gia thực hiện đề án phát triển toàn diện 3 huyện biển, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Trải qua 54 năm (3/3/1959 – 3/3/2013) ngày truyền thống “Bộ đội Biên phòng” và qua 24 năm thực hiện “Ngày Biên phòng toàn dân” (3/3/1989 – 3/3/2013), xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, mặc dù tổ chức nhiều lần thay đổi, nhưng các thế hệ cán bộ, chiến sỹ BĐBP của cả nước nói chung và Bến Tre nói riêng, đã không ngừng kế thừa và phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, lực lượng những người lính mang quân hàm xanh trên quê hương xứ dừa Bến Tre vẫn luôn đoàn kết một lòng, yên tâm, phấn khởi chấp hành tốt mọi chỉ thị, nghị quyết của Đảng, xác định rõ nhiệm vụ chính trị của lực lượng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, tích cực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần to lớn cùng quân, dân cả nước giữ vững chủ quyền an ninh biên giới, biển đảo của Tổ quốc và ra sức xây dựng lực lượng ngày càng vững mạnh, trưởng thành.
(Tham khảo tư liệu BĐBP tỉnh)


Bác Hồ kính yêu của dân tộc ta, đất nước ta, Bác là người Việt Nam đẹp nhất, một người Cộng sản mẫu mực, là vị lãnh tụ cách mạng thiên tài, nhà tư tưởng lớn của thời đại, có tư tưởng sáng suốt, tâm hồn cao thượng, ý chí kiên cường, tình cảm trong trẻo, tác phong khiêm tốn, cuộc sống giản dị.
Cả cuộc đời Bác đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, trong đó có việc giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ, Bác xem đó là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp giải phóng.
Míttinh xóa bỏ bạo hành với phụ nữ tại huyện Bình Đại, Bến Tre. (Ảnh tư liệu)
Nhớ lại trong những năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, trong những vấn đề Bác đặc biệt quan tâm, chú ý đến là trẻ em và phụ nữ ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Bác cho đó là lớp người khổ nhất trong những người khổ cực. Người căm ghét bọn thống trị luôn “đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người phụ nữ... và xúc phạm tới phong hóa, trinh tiết và đời sống của họ” (Bản án chế độ thực dân). Mỗi phụ nữ, một trẻ em bị đánh, bị giết đều làm tác giả đau đớn. Người đã từng thốt lên: “Một em bé bị lột trần truồng, một thiếu nữ ruột gan lòi ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình”.
Có lẽ đó chính là tình cảm, là động lực giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Trong gần 30 năm ở nước ngoài, Bác đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng tiến bộ của nhân loại, rồi khi trở về lại đất nước mình, Bác đã không phút ngơi nghỉ để cùng Đảng và nhân dân ta làm nên sự tích thần kỳ: “Lật nhào chế độ phong kiến thực dân, dựng nên một nước Việt Nam độc lập dân tộc và dân chủ tiến bộ”.
Bác đã khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ là quyền tự nhiên của con người; sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn bó mật thiết với giải phóng phụ nữ. Theo Bác, chỉ khi giành được quyền độc lập dân tộc thì mới thực hiện được quyền bình đẳng của phụ nữ: “Đàn bà, con gái cũng nằm trong nhân dân, nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do”.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có ý nghĩa thật sự khi giải phóng được phụ nữ, bởi vì: “Phụ nữ chiếm một nửa nhân loại, nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội”, “Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng”; “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”.
Bác Hồ thăm công nhân nữ đang làm việc tại xưởng dệt. (Ảnh tư liệu)
Từ tư tưởng nhân văn đó, trong các văn kiện tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 02/1930, Bác đã nêu ra một trong những chủ trương lớn của cách mạng Việt Nam là “thực hiện nam - nữ bình quyền”. Mục tiêu này đã được Hồ Chí Minh đưa vào Chương trình của Mặt trận Việt Minh năm 1941 và sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Bác đã nhiều lần tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng: “Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. “Công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”.
Theo Bác, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền: “Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó”. Bởi vì: “Trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội”. Xã hội ta ảnh hưởng rất lớn tư tưởng Nho giáo phong kiến, trọng nam, khinh nữ là một thói quen ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Để thật sự giải phóng phụ nữ, cần phải có sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức trong xã hội về tư tưởng thành kiến đối với phụ nữ.
Bác nhiều lần bày tỏ chính kiến trước công luận là phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến và đầu óc gia trưởng, tư tưởng tư sản, trọng nam khinh nữ. Bác cũng chỉ rõ: “Luật lấy vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phần nửa xã hội. Giải phóng người đàn bà”, “phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông”. Bác phê phán tình trạng chồng đánh vợ và khẳng định đây là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật: “Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ chồng, người công dân này đánh người công dân khác tức là phạm pháp”.
Với Bác nội dung cơ bản là giải phóng người lao động bị áp bức, là độc lập, tự do, bác ái, bình đẳng giữa người với người. Vì vậy, tư tưởng nhân văn của Người luôn thể hiện tình thương yêu vô bờ bến của Bác với nhân dân: Nông dân, công nhân, lao động trí óc, cụ già, em bé, phụ nữ. Và có thể khẳng định tư tưởng của Bác luôn là kim chỉ nam dẫn dắt cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua và là ánh đuốc soi sáng đường cho cuộc đấu tranh và xây dựng của nhân dân ta, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt, là tư tưởng của Bác đã trở nên bất hủ và trở thành những giá trị tinh thần bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra cả thế giới.
Trong thực tế phụ nữ nước ta chiếm hơn một nửa dân số, vì vậy Bác cho rằng có giải phóng phụ nữ kháng chiến kiến cuốc mới thực sự thành công. Giải phóng phụ nữ trước hết phải từ gia đình – tế bào của xã hội, thể hiện bình đẳng giới, một vợ một chồng. Nên rất sớm, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Bác đã chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình. Bác kêu gọi nhân dân bài trừ tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản, thói gia trưởng trọng nam khinh nữ.
Bác Hồ với phụ nữ các dân tộc của đất nước ta. (Ảnh sưu tầm)
Ngay trong cuộc Tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 06/01/1946, Bác vui mừng nhận ra rằng: "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất". Bác rất chú trọng công tác vận động phụ nữ, khơi dậy tinh thần yêu nước thương nòi, tổ chức hướng dẫn phụ nữ tham gia vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Bác biểu dương phụ nữ Việt Nam “hay lam hay làm” trong cuộc sống thường ngày và dũng cảm chiến đấu hy sinh khi Tổ quốc có giặc ngoại xâm. Bác đã nêu tấm gương Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa từ đầu thế kỷ thứ nhất đánh giặc cứu nước. Vào năm 1952, nhân kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ, Bác đã gửi thư ngợi khen: "Non sông gấm vóc Việt Nam ta do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức đệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ".
Những năm tháng tại đầu nguồn Pác Bó, trong diễn ca "Lịch sử nước ta", Bác đã khẳng định:
"Phụ nữ ta chẳng tầm thường
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời”
"Hai Bà Trưng có đại tài
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian
Ra tay khôi phục giang san
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta".
Và hình ảnh Bà Triệu cưỡi voi đánh cồng cũng được Bác khắc họa:
"Tỉnh Thanh Hóa có một bà
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi
Tài năng dũng cảm hơn người
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương".
Bác cũng từng căn dặn: "Hai Bà Trưng đã để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống vẻ vang là dũng cảm kháng chiến", thì: "Phụ nữ Việt Nam ta cũng phải xứng đáng là con cháu Hai Bà".
Bác còn nêu tấm gương anh dũng của Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu,… để phụ nữ ta học tập. Bác còn biết ơn các bà mẹ của cả hai miền Nam - Bắc đã có công sinh và dạy nên những thế hệ anh hùng của nước ta. Bác luôn tự hào rằng "Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng ... Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng, cả trong kháng chiến chống pháp. Rồi chống Mỹ "ta cũng có nhiều anh hùng là phụ nữ". "Từ trước đến nay phụ nữ Việt Nam ta có rất nhiều đóng góp cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính, phụ nữ ta có nhiều tiến bộ". Tuy nhiên, "Bác còn mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa".
Trong bài nói chuyện tại Đại hội phụ nữ tích cực Thủ đô lần thứ hai 8/3/1960, Bác cho rằng: "Hiện nay, trong các ngành số phụ nữ tham gia còn ít. Đảng và Chính phủ rất hoan nghênh, sẵn sàng cất nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng. Muốn vậy, bản thân phụ nữ phải: Gắng học tập chính trị, học tập văn hóa, kỹ thuật; nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa; hăng hái thi đua thực hiện "Cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình". Chúc chị em phụ nữ cố gắng học tập, tiến bộ nhiều, tiến bộ mãi để xứng đáng làm chủ nước nhà".
Hay tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III, họp ngày 9/3/1961, Bác đã đến dự và nói: “Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng. Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận thức rõ địa vị làm chủ và nhiệm vụ làm chủ nước nhà".
Và Bác đã nhất quán tư tưởng giải phóng phụ nữ là giải phóng toàn diện về chính trị, tư tưởng, xã hội, giải phóng sức lao động nữ giúp cho chị em có hiệu quả, đôi vai không phải gánh nặng và giảm thiểu cường độ lao động về chân tay. Bác chủ trương đào tạo phụ nữ trẻ trở thành những công dân mới XHCN, vừa biết lao động chân tay, vừa biết lao động trí óc – tạo mọi điều kiện cho phụ nữ học văn hóa, khoa học kỹ thuật, nâng cao trí thức tự vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.
Bác rất đặc biệt quan tâm công cuộc giải phóng phụ nữ ở nông thôn, nơi chiếm 80% dân số cả nước, lao động nữ là nhân công chủ yếu làm ra của cải trong nông nghiệp và nông thôn. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ đã gần 70 lần về thăm nông dân. Người ra đồng lội ruộng khi nông dân cày cấy, tát nước, làm cỏ, gặt hái. Người thấu hiểu nỗi vất vả của nông dân, của phụ nữ trong điều kiện lao động chân tay một nắng hai sương "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời".
Bác Hồ đã khuyến khích mọi người phát huy sáng kiến chế tạo máy móc, cải tiến công cụ thực hiện cơ giới hóa trong nông nghiệp, dùng máy móc công cụ, thay thế một phần lao động cơ bắp. Bác đã chủ trương phát triển giao thông nông thôn, dùng xe cơ giới, xe gia súc kéo, xe đạp thồ để "giải phóng đôi vai" cho nông dân, cho phụ nữ. Điều đó càng có ý nghĩa khi ngày nay trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, phần lớn lao động nam giới di chuyển không chính thức ra thành phố kiếm việc làm, việc đồng áng chủ yếu do phụ nữ ở quê đảm nhiệm.
Theo quan điểm của Bác, vấn đề giải phóng phụ nữ là một vấn đề xã hội to lớn, không phải chỉ là việc riêng của phụ nữ, mà là công việc quan trọng của Đảng, Nhà nước và đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn xã hội, của tất cả mọi người. Việc giải phóng phụ nữ là phải tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội. Chỉ có đưa phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa… thì mới bảo đảm quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh", Bác cũng từng viết: "Ông Các Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi: "Ông Lê-nin nói: Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng phải biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công".
Trước lúc ra đi vào cõi vĩnh hằng, Bác Hồ kính yêu của dân tộc ta, người thầy vĩ đại của Đảng ta, đã để lại cho chúng ta bản Di chúc quý giá, trong đó có những dòng viết riêng cho phụ nữ Việt Nam "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ" (Di chúc). 
Chỉ thế thôi, nhưng tình cảm của Bác luôn tràn đầy, vừa là lời huấn thị thiêng liêng và trở thành dấu ấn luôn trường tồn và in mãi trong lòng nhân loại và dân tộc ta.
Có thể khẳng định những tư tưởng của Bác trên các lĩnh vực, trong từng nội dung, trong mọi tình huống và đối với từng đối tượng Bác đề cập đến đều có ý nghĩa thiết thực, mang tính triết lý nhân văn sâu sắc. Những người phụ nữ Việt Nam qua các thế hệ thật sự xúc động và tri ân Bác, khi biết rằng, vào những năm tháng cuối cùng của đời mình, Bác đã để lại bản Di chúc quý giá, trong đó có những dòng viết riêng cho phụ nữ Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng nhân văn của Bác về sự nghiệp giải phóng phụ nữ, ngày 27/7/1993, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 04-NQ/TW và khẳng định: “Phụ nữ vừa là người công dân, người lao động, vừa là người mẹ và người thầy đầu tiên của con người. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong xây dựng gia đình cần tạo điều kiện để phụ nữ kết hợp hài hòa giữa nghĩa vụ công dân và chức năng người mẹ trong việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Đặc biệt, kỳ họp thứ 10 vào ngày 29/11/2006 của Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Luật Bình đẳng giới và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007.
Ngày nay phụ nữ đã được thể hiện vai trò không kém gì nam giới. Nhiều chị giữ những trọng trách trong bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta ngày càng tăng. Nhiều chị em làm chủ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho người lao động.
Nhân kỷ niệm 103 năm Quốc tế phụ nữ 8/3 (8/3/1900 – 8/3/2013) và 1973 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, phụ nữ cả nước nói chung và Bến Tre nói riêng hãy phát huy truyền thống và phẩm chất tốt đẹp của Phụ nữ Việt Nam trong các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc. Qua đó, khơi dậy lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường vượt khó vươn lên làm chủ bản thân, gia đình và xã hội, tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Cũng nhân dịp này các cấp Hội phụ nữ trên quê hương Bến Tre Đồng Khởi hãy cùng phát huy truyền thống Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục khó khăn, tập trung hoạt động chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ còn nhiều khó khăn; động viên các tầng lớp phụ nữ thực hiện tốt vai trò, chức năng của người phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội. Đặc biệt, là tất cả hãy phấn đấu thực hiện đạt các chuẩn mực của người phụ nữ trong thời kỳ CNH - HĐH Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, hưởng ứng tích cực hoạt động xây dựng nông thôn mới trên quê hương xứ dừa Bến Tre, góp phần làm cho quê hương ngày càng thêm giàu đẹp và nhất là góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh nhà.
ccccccc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét