Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý:
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng
Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo
đường bộ. Tỉnh Lào Cai được tái lập tháng 10/1991 trên cơ sở tách ra từ
tỉnh Hoàng Liên Sơn. Từ ngày 01/01/2004 (sau khi tách huyện Than Uyên
sang tỉnh Lai Châu) diện tích tự nhiên: 6.383,88 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/64 tỉnh, thành phố cả nước).
Phía Đông giáp tỉnh Hà
Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía Bắc
giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc với 203 km đường biên giới.
Địa hình: Địa
hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt mạnh.
Hai dãy núi chính là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng Tây
Bắc - Đông Nam nằm về phía đông và phía tây tạo ra các vùng đất thấp,
trung bình giữa hai dãy núi này và một vùng về phía tây dãy Hoàng Liên
Sơn. Ngoài ra còn rất nhiều núi nhỏ hơn phân bố đa dạng, chia cắt tạo ra
những tiểu vùng khí hậu khác nhau.
Do địa hình chia cắt nên
phân đai cao thấp khá rõ ràng, trong đó độ cao từ 300m - 1.000m chiếm
phần lớn diện tích toàn tỉnh. Điểm cao nhất là đỉnh núi Phan Xi Păng
trên dãy Hoàng Liên Sơn có độ cao 3.143m so với mặt nước biển, Tả Giàng
Phình: 3.090m.
Dải đất dọc theo sông
Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào Cai - Cam Đường - Bảo Thắng - Bảo
Yên và phần phía đông huyện Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm
thấp nhất là 80 m thuộc địa phận huyện Bảo Thắng), địa hình ít hiểm trở
hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng ruộng nước ruộng, là địa
bàn thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát triển cơ
sở hạ tầng.
Khí hậu: Lào Cai
có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chia phối
bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi,
khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất
hiện ở dạng nhiệt độ trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sa Pa
có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có tuyết rơi).
Khí hậu Lào Cai chia làm
hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu
từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ
150C - 200C (riêng Sa Pa từ 140C - 160C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800mm - >2.000mm. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng thấp từ 230C - 290C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm - 1.700mm.
Sương: Sương mù thường
xuất hiện phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất dày. Trong các
đợt rét đậm, ở những vùng núi cao và các thung lũng kín gió còn xuất
hiện sương muối, mỗi đợt kéo dài 2 - 3 ngày.
Đặc điểm khí hậu Lào Cai
rất thích hợp với các loại cây ôn đới, vì vậy Lào Cai có lợi thế phát
triển các đặc sản xứ lạnh mà các vùng khác không có được như: hoa, quả,
thảo dược và cá nước lạnh.
Thổ nhưỡng: Đất có độ phì cao, màu mỡ, đa dạng bao gồm 10 nhóm, 30 loại đất, phù hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau.
Dân số
Tổng dân số toàn tỉnh: 593.600 người (số liệu năm 2007), trong đó:
- Số người trong độ tuổi lao động: 314.520 người, chiếm khoảng 53%;
- Mật độ dân số bình quân: 93 người/km2.
- Số người trong độ tuổi lao động: 314.520 người, chiếm khoảng 53%;
- Mật độ dân số bình quân: 93 người/km2.
Dân tộc:
Có 25 nhóm ngành dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó dân tộc
thiểu số chiếm 64,09% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân
tộc Hmông chiếm 22,21%, tiếp đến là dân tộc Tày 15,84%, Dao 14,05%, Giáy
4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người Phù Lá, Sán
Chay, Hà Nhì, La Chí,...
Thiếu nữ dân tộc Dao Tuyển. Ảnh Hà Thắng
Đơn vị hành chính:
Có 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện là Sa Pa, Bát Xát, Bảo Yên, Bảo
Thắng, Si Ma Cai, Văn Bàn, Mường Khương, Bắc Hà, với 164 xã, thị
trấn, trong đó có 138 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Tỉnh Lào Cai được
chia làm 3 khu vực:
- Khu vực I:
Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi. Chủ yếu
là các xã ở vùng thấp, gần trung tâm các huyện, thành phố, giao thông và
các dịch vụ xã hội thuận lợi.
- Khu vực II: Là
các xã có điều kiện phát triển kinh tế- xã hội khó khăn, phần lớn các
xã này nằm ở vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại còn tương đối khó
khăn; các dịch vụ xã hội cơ bản đã được đáp ứng tương đối tốt.
- Khu vực III:
Là các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các xã ở
vùng sâu vùng biên giới, xa các trung tâm huyện, thành phố; địa hình bị
chia cắt mạnh, giao thông đi lại còn rất nhiều khó khăn; các dịch vụ xã
hội còn hạn chế.
Lịch sử Lào Cai
(12/10/2008 )
Lào
Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà Nội
296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà
Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên
Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới.
Cách
ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai. Thời
Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong
15 bộ của Nhà nước Văn Lang - là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở
thượng nguồn sông Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động
về địa danh... Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất
của châu Thuỷ Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một
phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa
danh Lào Cai chưa được hình thành.
Vùng
đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia có một khu chợ, dần dần người ta mở
mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa
phương được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một
phố chợ khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay). Theo cố giáo sư Đào Duy
Anh, từ Lão Nhai được biến âm thành Lao Cai và được gọi một thời gian
khá dài. Khi làm bản đồ, người Pháp viết Lao Cai thành Lào Kay. Danh từ
Lào Kay đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu. Nhưng
trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai. Sau ngày tỉnh
Lao Cai được giải phóng (11-1950), đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến
ngày nay.
Sau
khi đánh chiếm Lào Cai (3 -1886) và khi hoàn thành công cuộc bình định
quân sự, thực dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự.
Ngày 7/01/1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu
Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai. Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo
quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác bóc lột, thực
dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày
12/7/1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV
Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành
lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ
Việt Nam. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào
Cai cũng có nhiều thay đổi. Về địa đanh hành chính,qua nhiều lần tách
nhập:
-
Thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12/7/1907), phần đất của châu Thuỷ Vỹ
bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ
Vỹ. Từ đó địa danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên tả
ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai gồm
hai châu Thuỷ Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ, Bát
Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai, trong đó có 855 làng bản, 6.812
hộ, 39.099 nhân khẩu, với 11 dân tộc chủ yếu: Hmông, Dao, Tày, Giáy...
trong đó người Hmông chiếm 26,56%, Dao 22,41%, Tày, Giáy 20,77%, Kinh
4,52%, Nùng 7,33%, Thái 9,25%, U Ní 2,48%, Hoa Kiều 4,44%, còn lại là
các dân tộc khác.
-
Sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất, Lào Cai được chia
thành 8 huyện: Bắc Hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sa Pa, Bát Xát,
Phong Thổ và thị xã Lào Cai.
-
Ngày 7/5/1955, khu tự trị Thái Mèo được thành lập, huyện Phong Thổ của
tỉnh Lào Cai chuyển sang khu tự trị Thái Mèo, sau này thuộc tỉnh Lai
Châu.
-
Ngày 27/3/1975, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V đã nghị quyết hợp nhất
ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên
Sơn.
-
Ngày 17/4/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất thị xã Lào
Cai và Cam Đường thành thị xã Lào Cai trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.
-
Ngày 12/8/1991 kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết chia tỉnh
Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Ngày 01/10/1991 tỉnh
Lào Cai được tái lập, trên cơ sở vùng đất Lào Cai (cũ) và bổ sung thêm
ba huyện: Bảo Yên, Văn Bàn (thuộc Yên Bái cũ), Than Uyên (thuộc Nghĩa Lộ
cũ) bao gồm 8 huyện, hai thị xã.
- Ngày 9/6/1992, Hội đồng Bộ trưởng quyết định tách thị xã Lào Cai thành hai thị xã Lào Cai và Cam Đường.
- Ngày 30/12/2000, huyện Bắc Hà được tách thành hai huyện Si Ma Cai và Bắc Hà.
-
Ngày 31/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định sáp nhập thị xã
Lào Cai và thị xã Cam Đường thành thị xã tỉnh lỵ Lào Cai.
- Ngày 1/01/2004, huyện Than Uyên được tách ra thuộc tỉnh Lai Châu (mới).
-
Ngày 30/11/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số
195/2004/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai.
Một góc thành phố Lào Cai. Ảnh Ngọc Triển
Hiện
nay, tỉnh Lào Cai gồm thành phố Lào Cai và 8 huyện: Bảo Thắng, Bảo Yên,
Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn. Diện tích tự
nhiên 6.383,88 km2.
Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất:
Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30
loại đất. 10 nhóm đất là: đất phù sa, đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất
mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn thô trên núi, đất đỏ vàng
bị biến đổi do trồng lúa, đất sói mòn mạnh trơ sỏi đá và đất dốc tụ. Xin
giới thiệu một số nhóm đất đang được sử dụng thiết thực:
- Nhóm đất phù sa: diện tích nhỏ,
chiếm 1,47% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu dọc sông Hồng và sông
Chảy, có độ phì tự nhiên khá cao, thích hợp đối với các loại cây lương
thực, cây công nghiệp.
- Nhóm đất đỏ vàng: thường có màu
nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng hoặc vàng đỏ rực rỡ. Hình thành và phân bố rộng
khắp trên địa bàn toàn tỉnh ở độ cao 900m trở xuống, diện tích chiếm
trên 40% diện tích tự nhiên. Nhóm đất này có độ phì nhiêu khá cao, thích
hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây hàng năm.
- Nhóm đất mùn vàng đỏ: chiếm trên
30% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung tại các huyện Sa Pa, Mường
Khương, Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn. Nhóm đất này thích hợp trồng các loại
cây dược liệu quý, cây ăn quả và nhiều loại rau ôn đới quan trọng của
tỉnh. Đồng thời, nhóm đất này có thảm thực vật rừng phong phú, đa dạng
bậc nhất của tỉnh.
- Nhóm đất mùn alit trên núi: chiếm
11,42% diện tích tự nhiên, tập trung ở huyện Sa Pa, Văn Bàn... có thảm
rừng đầu nguồn khá tốt, thích hợp với một số loại cây trúc cần câu, đỗ
quyên, trúc lùn, rừng hỗn giao.
- Nhóm đất đỏ vàng bị biến đổi màu do trồng lúa: đây
là các loại đất feralitic hoặc mùn feralitic ở các sườn và chân sườn ít
dốc được con người bỏ nhiều công sức tạo thành các ruộng bậc thang để
trồng trọt hoa màu. Diện tích chiếm khoảng 2% diện tích tự nhiên phân bố
rải rác ở các huyện tạo nên những cảnh quan ruộng bậc thang rất đẹp mà
tiêu biểu là hai huyện Bắc Hà và Sa Pa.
* Với đặc diểm đất đai nói trên, trong quá trình quản lý, sử dụng được chia như sau:
- Đất nông nghiệp: 76.930 ha bao gồm:
+ Đất trồng cây hàng năm: 59378 ha, trong đó đất lúa có 28.215 ha
+ Đất trồng cây lâu năm: 12.668 ha
+ Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: 3.363 ha
+ Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 1.521 ha
- Đất lâm nghiệp: 307.573 ha, trong đó rừng tự nhiên có 24943 ha.
- Đất ở: 3.307 ha.
- Đất chuyên dùng: 31.330 ha.
- Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá: 219.249 ha.
2. Tài nguyên nước:
Lào Cai có hệ thống sông suối dày đặc được
phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với 2 con sông lớn chảy qua là sông
Hồng (130 km chiều dài chảy qua tỉnh) và sông Chảy bắt nguồn từ Vân Nam
(Trung Quốc) có chiều dài đoạn chảy qua tỉnh là 124 km. Ngoài 2 con sông
lớn, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn sông, suối lớn nhỏ (trong đó
có 107 sông, suối dài từ 10 km trở lên). Đây là điều kiện thuận lợi cho
Lào Cai phát triển các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, nguồn nước nguồn ước tính có trữ lượng xấp xỉ 30 triệu m3, trữ lượng động khoảng 4.448 triệu m3 với chất lượng khá tốt, ít bị nhiễm vi khuẩn.
Theo các tài liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 400C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa, hiện chưa được khai thác, sử dụng.
3. Tài nguyên rừng:
- Rừng: 307.573 ha, trong đó có 249.434 ha rừng tự nhiên và 58.139 ha rừng trồng.
- Thực vật rừng: rất phong phú cả
về số lượng loài và tính điển hình của thực vật. Riêng tại khu bảo tồn
thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã phát hiện được 847 loài thực vật thuộc 164
họ, 5 ngành, trong đó có nhiều loại quý hiếm như: Lát Hoa, Thiết Sam,
Đinh, Nghiến,...
- Động vật rừng: theo các tài liệu
nghiên cứu, Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái. Trong đó
thú có 84 loài thuộc 28 họ, 9 bộ; chim có 251 loài thuộc 41 họ, 14 bộ;
bò sát co 73 loài thuộc 12 họ,...
4. Tài nguyên khoáng sản:
Tới nay đã phát hiện được 150 mỏ và điểm
mỏ với trên 30 loại khoáng sản, trong đó có một số mỏ khoáng sản đã được
thăm dò, đánh giá trữ lượng, chất lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước
và khu vực như: mỏ A Pa Tit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt
Quý Sa trữ lượng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu
tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng 15,4 nghìn tấn.
Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và
đa dạng là cơ sở để ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản
khẳng định là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh.
5. Tài nguyên du lịch:
Trọng tâm là khu du lịch nghỉ mát Sa Pa -
một trong 21 trọng điểm du lịch của Việt Nam. Sa Pa nằm ở độ cao trung
bình từ 1.200m - 1.800m, khí hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng
cây núi đá, thác nước và là nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hoá truyền
thống của đồng bào các dân tộc như chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa,...
Đỉnh núi Phan Xi Păng - nóc nhà của Việt
Nam có dãy núi Hoàng Liên Sơn và khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên hấp
dẫn nhiều nhà khoa học, khách du lịch.
Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang
động tự nhiên và các vùng sinh thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà,
rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi (Phần Lan), cá tầm (Nga)...Và đặc
biệt, đây còn là nơi mang đậm nét đặc trưng văn hoá độc đáo của nhiều
dân tộc anh em.
Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu cũng là
một điểm du lịch thú vị mà điểm dừng chân không thể là nơi nào khác
ngoài thành phố Lào Cai.
Và đặc biệt, là tỉnh miền núi cao, đang
phát triển nên Lào Cai còn giữ được cảnh quan môi trường đa dạng và
trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng tạo nên một điểm du lịch lý tưởng
đối với du khách trong và ngoài nước.
6. Tài nguyên nhân văn:
Với hơn 20 nhóm dân tộc cùng sinh sống,
Lào Cai trở thành mảnh đất phong phú về bản sắc văn hoá, về truyền thống
lịch sử, di sản văn hoá,... Theo kết quả điều tra, hiện dân tộc Thái
còn lưu trữ hơn 100 bộ sách bằng chữ Pali ra đời từ thế kỉ XIII; dân tộc
Tày, Dao, Giáy có hàng nghìn bản sách cổ bằng chữ Nôm. Đặc biệt tại
huyện Sa Pa có bãi đá cổ được chạm khắc hoa văn thể hiện các hình tượng,
bản đồ, chữ ký, ký hiệu,...Hơn nữa, những biến động trong lịch sử đã để
lại cho Lào Cai nhiều di tích nổi tiếng như đền Bảo Hà, đền Thượng,
kiến trúc nhà Hoàng A Tưởng,... Không chỉ nhiều di sản vật thể và phi
vật thể được phát hiện, bảo tồn mà một kho tàng văn học dân gian đồ sộ
đến nay vẫn chưa được khám phá hết.
Cơ sở hạ tầng
1. Giao thông
Với
203 km đường biên giới với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, Lào Cai là một
trong những đầu mối giao thông quan trọng của cả nước nối liền với nước
bạn Trung Hoa. Là một tỉnh miền núi nên địa hình Lào Cai phức tạp, nhiều
đồi núi cao, chia cắt mạnh, rất khó khăn cho việc phát triển giao
thông. Nhưng bằng sự nỗ lực hết mình trong hơn 10 năm qua kể từ khi tái
lập tỉnh, ngành giao thông vận tải Lào Cai đã xây dựng được một hệ thống
giao thông thông suốt 4 mùa, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế -
xã hội, đảm nhiệm được vai trò cầu nối của cả nước với vùng Tây Nam -
Trung Quốc rộng lớn. Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng
lưới giao thông vận tải đa dạng, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường
sông.
- Đường bộ: Có
4 tuyến quốc lộ chạy qua địa bàn tỉnh (4D, 4E.279.70) với tổng chiều
dài trên 400 km; 8 tuyến tỉnh lộ với gần 300 km và gần 1.000 km đường
liên xã, liên thôn. Mạng lưới giao thông phân bố rộng khắp và khá đông
đều trên địa bàn các huyện, thị đảm bảo giao thông thuận lợi. Hiện tại
tuyến quốc lộ 70 đang được cải tạo nâng cấp (hoàn thành vào đầu năm
2009).
+
Tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai phía hữu ngạn sông Hồng đang
được triển khai xây dựng, theo tiến độ đến 2012 hoàn thành đi vào khai
thác, với chiều dài 264km, điềm nối với đường cao tốc Côn Minh – Hà Khẩu
giai đoạn 1 qua cầu đường bộ biên giới khu Thương mại – Công nghiệp Kim
Thành (Lào Cai); Dự án sử dụng vốn ODA của Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB). Đây là công trình trọng điểm quốc gia nằm trong chương trình hợp
tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông (GMS).
+ Tính đến năm 2007, Lào Cai đã có đường ô tô đến trung tâm tất cả các xã, phường trên địa bàn toàn tỉnh.
- Đường sắt:
Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua địa phận Lào Cai
dài 62 km được nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải khoảng 1
triệu tấn/năm và hàng ngàn lượt khách/ngày đêm. Theo kế hoạch năm 2009
tuyến đường này sẽ được cải tạo nâng cấp, sử dụng vốn của ADB, hoàn
thành vào năm 2011. Ngoài ra còn có đường sắt nối từ Phố Lu vào mỏ
Apatít Cam Đường và một nhánh từ Xuân Giao đi Nhà máy Tuyển quặng Tằng
Loỏng, với tổng chiều dài 58 km, theo thiết kế có 50 đôi tàu/ngày đêm.
- Đường sông:
Có 2 tuyến sông Hồng và sông Chảy chạy dọc tỉnh, tạo thành một hệ thống
giao thông đường thuỷ liên hoàn. Đường sông Lào Cai chưa thực sự phát
triển mạnh mặc dù trên địa bàn tỉnh có rất nhiều sông lớn như sông Hồng
dài 130 km (trong đó nội địa có 75 km và chung biên giới với Trung Quốc
khoảng 55 km). Tuy nhiên do có nhiều ghềnh thác chưa được chỉnh trị nên
khả năng vận tải còn hạn chế.
- Đường hàng không: Chính phủ đã có chủ trương xây dựng sân bay tại Lào Cai trong giai đoạn 2010 – 2015.
Trong
lĩnh vực giao thông đối ngoại ngành giao thông vận tải Lào Cai đã có
quan hệ chặt chẽ với ngành giao thông Vân Nam - Trung Quốc. Những năm
qua, hai bên thường xuyên trao đổi các vấn đề liên quan đến giao thông
giữa hai nước như: xây dựng các cầu qua sông biên giới hai nước, thực
hiện tốt Hiệp định vận tải đã ký kết...
2. Hạ tầng điện - nước
- Hạ tầng mạng lưới điện: 9/9
huyện, thành phố; 164 xã, phường, thị trấn có điện lưới quốc gia. 75%
hộ dân được sử dụng điện lướt. Tiềm năng thuỷ điện của Lào Cai khoảng
11.000MW; đã cho phép đầu tư 68 công trình với tổng công suất 889MW, dự
kiến đến 2010 sẽ phát điện khoảng 700MW. Ngoài ra từ năm 2006, ngành
Điện lực Việt Nam đã hoàn thành đấu nối đường dây 220 KV Yên Bái – Lào
Cai – Hà Khẩu để nhập khẩu điện từ Vân Nam (Trung Quốc) với nhu cầu sản
lượng khoản 300MW đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu về điện cho sản xuất kinh
doanh của các nhà đầu tư trước mắt cũng như lâu dài.
- Hạ tầng mạng lưới cấp thoát nước:
Hiện tại đã có hệ thống cấp nước sạch tại thành phố Lào Cai và hầu hết
các huyện, cùng với hệ thống giếng khoan đang cung cấp nước sạch cho 69%
dân số toàn tỉnh.
3. Hạ tầng thông tin liên lạc:
- Hạ tầng bưu chính:
Tính đến 30/9/2008, có 227 điểm phục vụ, trong đó: có 25 Bưu cục,
127/144 xã có điểm bưu điện văn hoá xã; 125 đại lý bưu điện, 100% trung
tâm huyện, thành phố có báo đến trong ngày. Bán kính phục vụ bình quân
2,7km/điểm phục vụ; bình quân số dân được phục vụ là 2.143 người/điểm
phục vụ (đạt 97% chỉ tiêu đến năm 2010).
- Hạ tầng viễn thông:
So với những năm trước, mạng lưới viễn thông của tỉnh Lào Cai đã có sự
phát triển vượt bậc. Hiện nay trên toàn mạng có 57 tuyến cáp quang, 30
tuyến truyền dẫn Vi ba, 170 trạm BTS. Mật độ điện thoại đạt 32 máy/100
dân (đạt 100% chỉ tiêu đến năm 2010). Thuê bao Internet đạt trên 11.900
thuê bao trong đó thuê bao băng rộng đạt 5.672 thuê bao. Theo hướng dẫn
về hệ số quy đổi của Bộ Tthông tin và Truyền thông mật độ sử dụng
Internet của tỉnh Lào Cai đạt 10,5/100 dân.
4. Hạ tầng công nghệ thông tin:
Hạ
tầng Công nghệ thông tin được phát triển ổn định. Dự án mạng LAN đô thị
với quy mô và công nghệ hiện đại đang trong quá trình xây lắp, đảm bảo
đến quý II năm 2009 hoàn thành giai đoạn đầu dự án, đảm bảo nhu cầu sử
dụng của các cơ quan khi đi chuyển về khu hành chính mới. Sau khi hoàn
thành giai đoạn II (năm 2010) đảm bảo tỉnh Lào Cai sẽ có một hạ tầng
truyền dẫn đáp ứng được nhu cầu đến 2020 và có khả năng mở rông cho các
giai đoạn tiếp theo. Việc phát triển hạ tầng CNTT tại các sở, ban, ngành
đã được chú trọng đầu tư, kết nối Internet phục vụ cho công tác quản
lý, điều hành. Đến nay đã có 42/59 cơ quan nhà nước có mạng LAN; tỷ lệ
máy tính kết nối Internet chiếm hơn 60%. Chỉ số ICT Index năm 2007 của
Lào Cai xếp thứ 31/64 tỉnh thành.
- Cổng giao tiếp điện tử ở địa chỉ: là kênh thông tin chính thức của tỉnh Lào Cai trên môi trường mạng.
5. Nguồn lao động:
năm 2007 tổng số có 337.803 người (số người trong độ tuổi lao động là
319288 người, trong đó số người có khả năng lao động là 315.261 người;
số người ngoài độ tuổi thực tế tham gia lao động là 22.542 người).
Cơ cấu lao động theo các ngành nghề:
Nông nghiệp và lâm nghiệp 227.027 người; Thuỷ sản 330 người; Công
nghiệp khai thác mỏ 5.238 người; Công nghiệp chế biến 6.821người; Sản
xuất và phân phối điện, khí đạt và nước 867; Xây dựng 11.650; Thương
nghiệp, sửa chữa xe có động cơ và đồ dùng cá nhân 13.145; Khách sạn và
nhà hàng 3.745; Vận tải, thông tin liên lạc 4.406; Tài chính, tín dụng
799; Hoạt động Khoa học và Công nghệ 120; Hoạt động kinh doanh tài sản,
dịch vụ tư vấn 593; Quản lý nhà nước an ninh quốc phòng 8.704; Giáo dục
& đào tạo 12.257; Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 2.208; Hoạt động
Văn hoá - thể thao 882; Hoạt động Đảng, đoàn thể, hiệp hội 1.813; Hoạt
động phục vụ cá nhân và cộng đồng 889.
6. Giáo dục và đào tạo:
Có 161 trường mẫu giáo, 229 trường tiểu học, 7 trường phổ thông cơ sở,
186 trường trung học cơ sở, 22 trường trung học phổ thông, 2 trường đào
tạo công nhân kỹ thuật, 1 trường Trung học Kinh tế Kỹ thuật, 1 trường
Trung cấp Văn hoá, Nghệ thuật và Du lịch, 1 Trường trung học Y tế, 1
Trường Cao đẳng Sư phạm.
7. Y tế: 100%
số xã, phường, thị trấn có Trạm xá và cán bộ y tế. Có 4 bệnh viện tuyến
tỉnh, 8 bệnh viện tuyến huyện và 36 phòng khám đa khoa khu vực với
2.180 giường điều trị.
Lào Cai: Đồng loạt ra quân “Ngày thứ 7 tình nguyện”
Sáng
ngày 9/3/2013, đồng loạt 9/9 Huyện, Thành đoàn trên địa bàn tỉnh Lào
Cai đã đồng loạt ra quân “Ngày thứ 7 tình nguyện” với nhiều hoạt động
sôi nổi, thiết thực trong đó Thành đoàn Lào Cai là đơn vị được Tỉnh Đoàn
Lào Cai lựa chọn chỉ đạo điểm để tổ chức hoạt động cấp tỉnh.
Tham dự buổi lễ có đồng chí đồng chí Nguyễn Hữu Thể - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Lào Cai; đồng chí Giàng Thị Dung - Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn Lào Cai cùng
500 đoàn viên thanh niên thành phố Lào Cai đến từ các chi đoàn cơ sở và
đoàn viên thanh niên công ty Vietravel chi nhánh Lào Cai.
Với
quyết tâm các dân tộc thành phố Lào Cai phấn đấu đưa Lào Cai trở thành
Thành phố anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới dựa trên quan điểm chỉ
đạo “muốn có thành phố anh hùng thì trước hết phải có con người anh
hùng; muốn có con người anh hùng thì phải có hành động anh hùng; và hành
động anh hùng ấy bắt đầu từ những hành động có ích thường ngày của mỗi
đoàn viên thanh niên chúng ta”. Xuất phát từ ý nghĩa đó Ban Thường vụ
Thành đoàn Lào Cai phối hợp với công ty Vietravel chi nhánh Lào Cai tổ chức
chương trình “Ngày thứ 7 tình nguyện” là một trong các hoạt động thiết
thực hưởng ứng Tháng thanh niên năm 2013 trong đó trọng tâm là đoàn viên
thanh niên tỉnh Lào Cai tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới và văn minh đô thị với phương châm “Ứng xử văn hóa, hành động văn minh”; bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan đô thị.
Với phương châm Mỗi Thanh niên một việc tốt, mỗi cơ sở Đoàn một hoạt động thiết thực tham gia xây dựng nông thôn mới và văn minh đô thị. Chương trình Ngày thứ 7 tình nguyện được đồng loạt tổ chức ở 9/9 huyện, thành phố Lào Cai với nhiều hoạt động sôi động như: giúp đỡ nhân dân bê tông hóa đường giao thông; khơi thống cống rãnh, vệ sinh môi trường; tổ chức tọa đàm về đạo đức, lối sống trong thanh thiếu nhi; tổ chức “Ngày chủ nhật xanh”, “Ngày thứ bảy tình nguyện”
với các nội dung chỉnh trang, vệ sinh khu phố; bóc xóa quảng cáo, rao
vặt trái phép; xóa các điểm đen về môi trường, các điểm tập kết rác sai
quy định; Duy trì hiệu quả các đội hình tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông, nhân rộng mô hình cổng trường an toàn. Tổ chức “Ngày hội Thanh niên Việt Nam”, tập
trung tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao cho
thanh thiếu nhi; tổ chức các hoạt động vui chơi ngoài trời gắn với bồi
dưỡng văn hóa ứng xử và kỹ năng xã hội cho thanh thiếu niên;
tuyên truyền, vận động nhân dân không lấn chiếm hành lang vỉa hè, không
đỗ xe tại nơi không cho phép, không để mái hiên mái vẩy trên các tuyến
phố; không xả rác bừa bãi xuống sông Hồng, suối ngòi Đum … Qua đó, góp
phần để xây dựng hình ảnh một Lào Cai xanh - sạch - đẹp và an toàn.
Ngay trong Ngày thứ 7 tình nguyện đầu tiên, đoàn viên thanh niên thành phố Lào Cai đã tiến hành thu gom gần 1 tấn rác thải, bóc xóa hơn 2350 quảng cáo, rao vặt trái phép; dọn vệ sinh, sơn sửa 120 cột đèn…tuyên truyền, vận động 1500 gia đình, bà con nhân
dân không lấn chiếm hành lang vỉa hè, phát 3000 túi nilong tự hủy, phát
2000 tờ rơi tại 6 địa điểm là 4 chợ Trung tâm thành phố, Cửa khẩu quốc
tế Lào Cai, Ga Lào Cai.
Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Giàng Thị Dung - Bí thư Tỉnh đoàn Lào Cai nhấn mạnh: “Để
thực hiện có hiệu quả tháng Thanh niên năm 2013, tôi đề nghị các cấp bộ
đoàn cần thực hiện tốt các nội dung: Tuyên truyền, học tập, quán triệt
Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X; Nghị quyết Đại hội Đoàn
toàn tỉnh lần thứ XII, nghị quyết đại hội đoàn các cấp. Đẩy mạnh thực
hiện phong trào “Tuổi trẻ Lào Cai xung kích xây dựng nông thôn mới”:
Tham gia làm đường giao thông nông thôn, mỗi đoàn xã đảm nhận đổ bê tông
ít nhất 300m đường giao thông nông thôn.Thực
hiện tốt cuộc vận động Thanh niên tham gia xây dựng Văn minh đô thị, đảm
bảo 100% đoàn phường có hoạt động tham gia bảo vệ môi trường hàng
tháng; xây dựng “Tuyến đường thanh niên tự quản về an ninh trật tự”,
tham gia xây dựng nếp sống văn minh đô thị, giữ gìn vệ sinh môi trường
và cảnh quan đô thị; tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông; giữ
gìn an ninh trật tự và phòng, chống tệ nạn xã hội; củng cố tổ chức Đoàn,
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của cơ sở Đoàn trên địa bàn đô
thị với phương châm “thanh niên đô thị ứng xử văn hóa, hành động văn
minh”…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét