Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

chim trĩ giống , bán chim trỉ thịt gia re , trĩ đỏ, xanh , bảy 7 màu cung cấp ở tại bắc giang , ban chim tri thit , cung cap chim tri giong o tai bac giang giá rẻ

Tài nguyên khoáng sản
Trên địa bàn tỉnh tuy không có nhiều mỏ khoáng sản lớn nhưng lại có một số loại là nguồn nguyên liệu quan trọng để phát triển công nghiệp như mỏ than đá ở Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động, Lục Nam có trữ lượng khoảng trên 114 triệu tấn, gồm các loại than antraxit, than gầy, than bùn, trong đó mỏ than Đồng Rì có trữ lượng lớn (107,3 triệu tấn).



Ngoài ra, Bắc Giang có một số loại quặng: Quặng sắt ước khoảng 0,5 triệu tấn thuộc huyện Yên Thế; quặng đồng khoảng gần 100 tấn ở huyện Lục Ngạn, Sơn Động; cao-lanh khoảng 03 triệu tấn ở huyện Yên Dũng. Tỉnh cũng có tiềm năng lớn về khoáng sét sử dụng làm gạch ngói, với 16 mỏ và điểm mỏ, tổng trữ lượng khoảng 360 triệu m3, chủ yếu ở các huyện: Việt Yên, Lục Nam, Lạng Giang, Yên Thế, Hiệp Hoà; trong đó, có 100 triệu m3 sét làm gạch chịu lửa ở Tân Yên, Việt Yên và sỏi, cuội kết ở Hiệp Hoà, Lục Nam.
Khí hậu

Tỉnh Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa khu vực Đông Bắc Việt Nam, một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa Đông có khí hậu khô, lạnh; mùa Hè khí hậu nóng, ẩm; mùa Xuân và Độ ẩm trung bình trong năm là 83%, một số tháng trong năm có độ ẩm trung bình trên 85%. Các tháng mùa khô có độ ẩm không khí dao động khoảng 74% - 80%.





Độ ẩm trung bình trong năm là 83%, một số tháng trong năm có độ ẩm trung bình trên 85%. Các tháng mùa khô có độ ẩm không khí dao động khoảng 74% - 80%.

Lư­ợng mư­a trung bình hàng năm khoảng 1.533 mm, mưa nhiều trong thời gian các tháng từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng nước bốc hơi bình quân hàng năm khoảng 1.000 mm, 4 tháng có lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa là từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau.
Chế độ gió cơ bản chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam (mùa Hè) và gió Đông Bắc (mùa Đông). Một số khu vực thuộc miền núi cao có hình thái thời tiết khô lạnh, rét đậm, có sương muối vào mùa Đông. Ít xuất hiện gió Lào vào mùa Hè. Một số huyện miền núi có hiện tượng lốc cục bộ, mưa đá, lũ vào mùa mưa. Bắc Giang ít chịu ảnh hưởng của bão do có sự che chắn của nhiều dãy núi cao.
Nắng trung bình hàng năm từ 1.500 - 1.700 giờ, thuận lợi cho canh tác, phát triển các cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới.

Tài nguyên nước

Phần lãnh thổ tỉnh Bắc Giang có 3 con sông lớn chảy qua với tổng chiều dài 347 km, lưu lượng lớn và có nước quanh năm. Hệ thống ao, hồ, đầm, mạch nước ngầm có trữ lượng khá lớn. Lượng nước mặt, nước mưa, nước ngầm đủ khả năng cung cấp nước cho các ngành kinh tế và sinh hoạt, cụ thể tài nguyên nước trên các sông như sau:


- Sông Cầu: Sông Cầu có chiều dài 290 km, đoạn chảy qua địa phận Bắc Giang có chiều dài 101 km. Sông Cầu có hai chi lưu lớn nằm ở hữu ngạn là sông Công và sông Cà Lồ. Lưu lượng nước sông Cầu hàng năm khoảng 4,2 tỷ m3, hiện nay đã có hệ thống thủy nông trên sông Cầu phục vụ nước tưới cho các huyện: Tân Yên, Việt Yên, Hiệp Hòa, một phần thành phố Bắc Giang và huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
- Sông Lục Nam: Sông Lục Nam có chiều dài khoảng 175 km, đoạn chảy qua địa phận tỉnh Bắc Giang có chiều dài khoảng 150 km, bao gồm các chi lưu chính là sông Cẩm Đàn, sông Thanh Luận, sông Rán, sông Bò. Lưu lượng nước hàng năm khoảng 1,86 tỷ m3. Hiện tại trên hệ thống sông Lục Nam đã xây dựng khoảng 170 công trình chủ yếu là hồ, đập để phục vụ nước tưới cho các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam.
- Sông Thương: Sông Thương có chiều dài 87 km, có chi lưu chính là sông Hóa, sông Sỏi và sông Trung. Lưu lượng nước hàng năm khoảng 1,46 tỷ m3, trên sông Thương đã xây dựng hệ thống thủy nông Cầu Sơn phục vụ nước tưới cho huyện Lạng Giang, một phần các huyện: Lục Nam, Yên Dũng và thành phố Bắc Giang.
- Các hồ lớn: Bắc Giang có khoảng 70 hồ chứa lớn với tổng diện tích gần 5.000 ha, một số hồ có diện tích và trữ lượng nước khá lớn như: Hồ Cấm Sơn, trữ lượng nước khoảng 307 triệu m3; hồ Suối Nứa, trữ lượng khoảng 6,27 triệu m3; hồ Hố Cao, trữ lượng khoảng 1,151 triệu m3; hồ Cây Đa, trữ lượng khoảng 2,97 triệu m3 và hồ Suối Mỡ, trữ lượng khoảng 2,024 triệu m3
- Nguồn nước ngầm: Lượng nước ngầm ở Bắc Giang ước tính khoảng 0,33 tỷ m3/năm, chất lượng nước ngầm khá tốt, dùng được trong sinh hoạt và làm nước tưới trong nông nghiệp.
Tài nguyên đất

Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123.000 ha đất nông nghiệp, 110.000 ha đất lâm nghiệp, 66.500 ha đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở, còn lại khoảng 82.700 ha là các loại đất khác, trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm diện tích lớn hơn cả khoảng 63,13% diện tích tự nhiên. Nguồn tài nguyên đất được chia làm 6 nhóm đất chính:

Lịch sử
Ngày đăng: 10/12/2012

Bắc Giang ngày nay là vùng đất tụ cư của 20 dân tộc anh em, gồm: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao, Sán Chí, Sán Dìu... Nơi đây ở vào một địa thế thuận lợi, nằm trong khu vực Bắc Bộ, đất đai được bồi đắp phù sa bởi các con sông lớn như: Sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam; có núi cao bao bọc, có nhiều lâm sản quý, có vùng trung du rộng lớn thuận lợi việc canh tác.





Trong lịch sử, thời các vua Hùng, Bắc Giang thuộc bộ Vũ Ninh của nước Văn Lang, dưới triều Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009) thuộc huyện Long Biên, thời Lý - Trần thuộc lộ Bắc Giang, thời Hậu Lê thuộc thừa tuyên Kinh Bắc, sau đổi thành trấn Kinh Bắc, trấn Bắc Ninh. Dưới đời vua Minh Mạng (năm thứ 2, 1821), Bắc Giang thuộc phủ Thiên Phúc, năm 1831, đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Ngày 10/10/1895 Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập tỉnh Bắc Giang trên cơ sở hai phủ Đa Phúc, Lạng Giang tách ra từ tỉnh Bắc Ninh. Ngày 27/10/1962, tỉnh Bắc Giang sáp nhập với tỉnh Bắc Ninh trở thành tỉnh Hà Bắc. Ngày 06/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn chia tách tỉnh Hà Bắc, tái lập hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Bộ máy hành chính tỉnh Bắc Giang chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997 đến nay.
Cư dân Bắc Giang sinh sống bằng nghề nông là chính. Trải qua nhiều đời, họ đã hình thành nên các làng, bản với hình thức kinh tế và văn hoá riêng biệt. Từ phương thức canh tác, chăn nuôi, từ nếp sinh hoạt, trang phục, phong tục, tập quán cho đến cách nghĩ, cách làm và lối sống… đã tạo nên truyền thống và đặc trưng của Bắc Giang.  Làng truyền thống tiêu biểu còn giữ được như: Làng gốm Thổ Hà; làng rượu Vân Hà (Việt Yên); làng bún Đa Mai (thành phố Bắc Giang); làng mây tre đan Phúc Long, Phúc Tằng (Tăng Tiến - Việt Yên); làng rèn sắt Đức Thắng (Hiệp Hoà); làng quan họ Thổ Hà (Vân Hà - Việt Yên); làng tuồng Tân Dĩnh (Lạng Giang); làng chèo Đồng Quan (Đồng Sơn - Yên Dũng); làng Then (Thái Đào - Lạng Giang)...
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vẫn được giữ gìn và phát huy. Làng võ, làng vật ở Yên Thế, Hiệp Hoà, làng thợ ở Yên Dũng; Làng Vân Xuyên (Hoàng Vân - Hiệp Hoà), vì cả làng theo Cách mạng mà còn gọi là làng Đỏ; làng Sặt (Liên Sơn - Tân Yên) là làng kháng chiến.
Qua các thời kỳ lịch sử, Bắc Giang luôn có những nhân tài, trí sỹ: Đào Sư Tích; Thân Nhân Trung; Giáp Hải; Hoàng Công Phụ; Nguyễn Khắc Nhu; Hoàng Hoa Thám; Nguyễn Văn Mẫn; Hà Thị Quế…
- Nhóm đất phù sa: Diện tích khoảng 50.246 ha, chiếm 13,14% diện tích đất tự nhiên. Loại đất này được phân bố chủ yếu ở vùng địa hình bằng phẳng ven các sông. Đây là nhóm đất có hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp với các loại cây nông nghiệp, đặc biệt là các loại cây trồng ngắn ngày.
- Nhóm đất bạc màu: Diện tích khoảng 42.897 ha, chiếm 11,22% diện tích đất tự nhiên, là loại đất bạc màu trên phù sa cổ, tập trung nhiều ở các huyện: Việt Yên, Tân Yên, Hiệp Hòa. Đây là nhóm đất bằng, nghèo đạm, lâm, giàu ka-li, tơi, xốp, thoát nước tốt, thích hợp với các loại cây lấy củ, hạt như: Khoai tây, khoai lang, cây đậu đỗ và các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ: Diện tích khoảng 6.546 ha, chiếm 1,71% diện tích đất tự nhiên. Loại đất này phân bố chủ yếu ở các thung lũng nhỏ, kẹp giữ các dãy núi. Đây là loại đất được hình thành và phát triển trên sản phẩm rửa trôi và lắng đọng của tất cả các loại đất nên thường có độ phì khá, rất thích hợp với các loại cây trồng như: Ngô, đậu, đỗ và cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất đỏ vàng: Diện tích khoảng 241.358 ha, chiếm 63,13% diện tích đất tự nhiên. Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất trong các nhóm đất ở Bắc Giang. Loại đất này thường có màu nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng tùy theo mẫu chất, quá trình phong hóa và quá trình tích lũy hữu cơ.
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: Diện tích 1.008 ha, chiếm 0,27% diện tích đất tự nhiên, phân bố ở các ngọn núi cao giáp dãy núi Yên Tử và giáp tỉnh Thái Nguyên.
- Nhóm đất xói mòn: Diện tích khoảng 18.809 ha, chiếm 4,92% diện tích đất tự nhiên. Loại đất này có đặc điểm là tầng đất mỏng, độ phì kém, khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có khoảng 668,46 ha núi đá bằng 0,17% diện tích đất tự nhiên; khoảng 20.796 ha đất ao, hồ, chiếm khoảng 5,44% diện tích đất tự nhiên.
Vị trí địa lý

Vị trí địa lý tỉnh Bắc Giang nằm ở tọa độ từ 21 độ 07 phút đến 21 độ 37 phút vĩ độ bắc; từ 105 độ 53 phút đến 107 độ 02 phút kinh độ Đông; Bắc Giang là tỉnh miền núi, nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) 110 km về phía Nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km về phía Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, Thái Nguyên, phía Nam và Đông Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Bắc Giang hiện có 09 huyện và 01 thành phố, trong đó có 06 huyện miền núi và 01 huyện vùng cao (Sơn Động); 230 xã, phường, thị trấn (207 xã, 7 phường, và 16 thị trấn).
Đặc điểm địa hình: Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng: Miền núi và trung du có đồng bằng xen kẽ. Vùng trung du bao gồm các huyện: Hiệp Hòa, Việt Yên và thành phố Bắc Giang. Vùng miền núi bao gồm 7 huyện: Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang. Trong đó một phần các huyện Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Sơn Động là vùng núi cao.
Đặc điểm chủ yếu về địa hình miền núi (chiếm 72% diện tích toàn tỉnh) là chia cắt mạnh, phức tạp, chênh lệch về độ cao lớn. Nhiều vùng đất đai tốt, nhất là ở các khu vực còn rừng tự nhiên.
Vùng đồi núi thấp có thể trồng được nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp nh­ư: Vải thiều, cam, chanh, na, hồng, chè, đậu tư­ơng, lạc...; thuận tiện để chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, thuỷ sản.
Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền trung du (chiếm 28% diện tích toàn tỉnh) là đất gò, đồi xen lẫn đồng bằng tùy theo từng khu vực. Vùng trung du có khả năng trồng nhiều loại cây l­ương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, cá và nhiều loại thuỷ sản khác.
Văn hóa

Bắc Giang có đặc điểm văn hóa phong phú và đa dạng, được quy tụ và thể hiện thông qua đời sống, phong tục, tập quán truyền thống của cộng đồng mỗi dân tộc; biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo ở lễ hội truyền thống.

H ội làng tồn tại hàng nghìn năm với các nghi lễ, nội dung, hình thức riêng song mục đích chính của lễ hội đều nhằm giúp cho sự thống nhất, đoàn kết trong cộng đồng làng xã, giáo dục truyền thống văn hoá, lịch sử, truyền thống chống ngoại xâm, truyền thống hiếu học, phát triển ngành nghề. Hàng năm, Bắc Giang có hơn 500 lễ hội truyền thống được tổ chức; một số lễ hội tiêu biểu ở Bắc Giang như: lễ hội Yên Thế; lễ hội Xương Giang; lễ hội Suối Mỡ; lễ hội Thổ Hà; lễ hội Chùa La (Vĩnh Nghiêm)…
 Bắc Giang có hàng nghìn công trình kiến trúc cổ đặc sắc với nhiều loại hình khác nhau như: Đình, đền, chùa, miếu, phủ, từ đường, văn chỉ… Mặc dù đã mất mát đi rất nhiều, song những công trình còn lại như: Đình Lỗ Hạnh (Đồng Lỗ - Hiệp Hoà), xây năm 1576; đình Thổ Hà (Vân Hà - Việt Yên) xây dựng năm 1686; đình Phù Lão (Đào Mỹ - Lạng Giang) xây dựng thế kỷ XVII; đình Cao Thượng, đình Vường, đình Hả (Tân Yên); chùa Vĩnh Nghiêm (Trí Yên – Yên Dũng); chùa Bổ Đà (Việt Yên); lăng họ Ngọ, lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa)… đã thể hiện những dấu ấn đặc sắc về kỹ thuật tạo dựng công trình và nghệ thuật hội họa, điêu khắc tuyệt tác của người Bắc Giang.
Theo thống kê, khảo sát, tính đến 11/2010, trên toàn tỉnh Bắc Giang có 2.237 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong số đó đã lập hồ sơ khoa học và pháp lý xếp hạng được 492 di tích các loại (109 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 383 di tích xếp hạng cấp tỉnh). Trong tổng số 2.237 di tích các loại được phân bổ ở các huyện, thành phố như sau: Huyện Sơn Động 24 di tích; huyện Lục Ngạn 173 di tích; huyện Lục Nam 263 di tích; huyện Lạng Giang 237 di tích; huyện Yên Thế 109 di tích; huyện Tân Yên 347 di tích; huyện Hiệp Hoà 385 di tích; huyện Việt Yên 331 di tích; huyện Yên Dũng 318 di tích; thành phố Bắc Giang 50 di tích. Nổi bật là dấu tích thành cổ Xương Giang; khu di tích cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế; khu di tích cách mạng Hoàng Vân, di tích Y Sơn (Hiệp Hoà); cây Dã hương nghìn năm tuổi (Lạng Giang), Kho Mộc bản hơn 3.000 bản được lưu giữ tại chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) đã chính thức được công nhận là Di sản tư liệu Khu vực châu Á – TBD (ngày 16/5/2012 tại Bankok, Thái Lan)

 Bắc Giang cũng là nơi có kho tàng văn nghệ dân gian phong phú như: Truyện thần thoại, truyện cổ tích, huyền thoại, giai thoại, truyện cười, tục ngữ, ca dao, hát ví, hát trống quân, hát quan họ, chèo, ca trù và dân ca của các dân tộc thiểu số. Dân ca Quan họ và Ca trù đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
 Bắc Giang có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: Khu thắng cảnh Suối Mỡ (huyện Lục Nam); hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần (huyện Lục Ngạn); Rừng nguyên sinh Khe Rỗ, Tây Yên Tử (huyện Sơn Động) với những hệ động, thực vật phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều loại sinh vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam đang được bảo tồn,… đó là điều kiện thuận lợi để Bắc Giang phát triển nhiều loại hình du lịch…
Dân tộc

Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 20 dân tộc chung sống như: Kinh, Tày, Hoa, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Mường, Thái, Khơ Me, H’Mông,... trong đó dân tộc Kinh chiếm đại đa số (84,1%); các dân tộc chiếm tỉ lệ nhỏ là Khơ-me (0,002%), H’Mông (0,002%), Thái (0,004%).




Cơ cấu và phân bố các dân tộc trong tỉnh Bắc Giang như sau:

TT
Dân tộc
Số lượng
Phân bố chủ yếu
1
Nùng
73.932
Lục Ngạn, Yên Thế, Lục Nam. Lạng Giang
2
Tày
39.603
Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Lạng Giang
3
Sán Dìu
26.812
Lục Ngạn, Lục Nam, Lạng Giang, Yên Thế
4
Hoa
18.444
Lục Ngạn, Lục Nam, Sơn Động
5
Sán Chí
24.786
Lục Ngạn, Sơn Động, Lục Nam, Yên Thế
6
Cao Lan
7
Dao
8.871
Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn
8
Kinh
1.318.315
Các huyện, thành phố trong tỉnh
9
Dân tộc khác
481
Phân bố ở các huyện và TP. Bắc Giang
 Dân số chia theo giới tính: Nam 781.560 người, chiếm 49,85%; nữ 785.997 người, chiếm 50,15%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân giai đoạn 2000 - 2010 là 1,14%.
 Dân cư

Dân số toàn tỉnh đến hết năm 2010 là 1.567.557 người, mật độ dân số bình quân là 408,1 người/km2, cao hơn so với bình quân của khu vực và cả nước. Dân số sống ở khu vực thành thị khoảng 151.000 người, chiếm khoảng 9,62% dân số, dân số ở khu vực nông thôn là 1.416.614 người, chiếm 90,38%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,85% dân số, nữ giới khoảng 50,15% dân số. Số ngư¬ời trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 64,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề chiếm 24%; số hộ nghèo chiếm 9,78%.
Đặc điểm phân bố dân cư không đồng đều, phần lớn tập trung ở các khu vực trung du (TP. Bắc Giang bình quân 2.186 người/km2; huyện Hiệp Hoà bình quân 1.045 người/km2; huyện Việt Yên bình quân 936,9 người/km2; huyện Tân Yên bình quân 774,7 người/km2; huyện Lạng Giang bình quân 802,7 người/km2; huyện Yên Dũng bình quân 739,9 người/km2). Các huyện miền núi dân cư sống thưa thớt hơn (huyện Sơn Động bình quân 82,2 người/km2; huyện Lục Ngạn bình quân 203,8 người/km2; huyện Yên Thế bình quân 313,8 người/km2; huyện Lục Nam bình quân 335 người/km2).
Cư dân Bắc Giang sinh sống bằng nghề nông là chủ yếu, một số địa phương có làng nghề truyền thống còn duy trì đến ngày nay. Cơ cấu lao động giữa khu vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp đang có sự thay đổi theo quá trình thay đổi của tỉnh. 

Một số chỉ tiêu phấn đấu đạt được đến năm 2015 và năm 2020


* Đến năm 2015:
Theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015 là:
- Đưa nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 11% đến12%;
- Cơ cấu kinh tế trong GDP: công nghiệp - xây dựng 38,5% - 40%; dịch vụ 37,5% - 38% ; Nông, lâm, thủy sản 22 - 24%;
- Thu nhập bình quân đầu người đạt1.315-1.380 USD/người/năm;
- Thu ngân sách trên địa bàn 2.300 tỷ đồng;
- Kim ngạch xuất khẩu 800 triệu USD;
- Huy động vốn đầu tư toàn xã hội cả giai đoạn 80 nghìn tỷ đồng;
- Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 620 nghìn tấn;
- Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 100%;
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2-3% năm;
- Giải quyết việc làm mới bình quân mỗi năm 27.000 lao động.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo 50%;
- Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia 75%;
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng dưới 15%;
- Tỷ lệ hộ được công nhận danh hiệu “gia đình văn hóa” 80%; tỉ lệ làng, bản, khu phố được công nhận danh hiệu “làng văn hóa” 60-65%;
- Tỷ lệ dân số thành thị 14-16%;
- Tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42%;
- Tỷ lệ dân số thành thị sử dụng nước sạch 99%; tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 88%;
- Tỷ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới 20%;
- Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh trên 70%. Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên trên 82%;
* Đến năm 2020:
Căn cứ Quyết định số 05/2009 ngày 13/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang đến năm 2020 thì các chỉ tiêu chủ yếu của tỉnh cụ thể như sau:
- Đưa nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn (2016- 2020) là 12%/năm;
-  Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2020: công nghiệp-xây dựng 49,2%; dịch vụ 37,1; Nông, lâm, thủy sản 13,7%;
- Phấn đấu giảm dần mức chênh lệch GDP/người so với trung bình cả nước và vượt mức các chỉ tiêu trong Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị đối với vùng trung du miền núi phía Bắc;
- Kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2020 là 15% -16% năm;
- Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 100%;
- Giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo (giai đoạn 2016 - 2020 giảm bình quân mỗi năm 0,5 - 0,8%);
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp đô thị xuống khoảng 4% vào năm 2020;
- Phấn đấu đến năm 2020 có 90% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, 80% làng, bản, khu phố đạt chuẩn văn hóa được cấp huyện công nhận;
- Nâng độ che phủ của rừng lên 43% vào năm 2020;
- Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ dân số ở thành thị dùng n­ước hợp vệ sinh đạt 99,5% và ở nông thôn đạt 95%.
5 Chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015:

Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đề ra 5 chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm, cụ thể là:


1 - Chương trình đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp - dịch vụ giai đoạn 2011 – 2015: Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, nhất là thủ tục hành chính, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi, môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư, đổi mới xúc tiến đầu tư, xúc tiến đầu tư ở cả trong nước và nước ngoài. Tăng cường thu hút đầu tư để phát triển công nghiệp, dịch vụ. Chú trọng thu hút những dự án lớn, có công nghệ tiên tiến, có khả năng đóng góp nhiều cho ngân sách của tỉnh.
2 - Chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung gắn với xây dựng nông thôn mới: Phát triển nông nghiệp hàng hóa trên cơ sở quy hoạch, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, gắn với thị trường và công nghiệp chế biến; nâng cao chất lượng sản phẩm; đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; xây dựng và giữ gìn thương hiệu sản phẩm, nâng sức cạnh tranh, tăng giá trị, mang lại thu nhập cao và ổn định, bền vững cho nông dân; tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; thực hiện tốt Chương trình Mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
3 - Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị: Xây dựng quy hoạch có chất lượng với tầm nhìn xa; quản lý và thực hiện tốt quy hoạch. Huy động các nguồn lực để đầu tư cải tạo, nâng cấp hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, đô thị, giáo dục, y tế, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chuẩn bị các điều kiện để thành phố Bắc Giang hướng tới các tiêu chí của đô thị loại 2; xây dựng một số khu đô thị mới; nâng cấp một số thị trấn theo phân kỳ quy hoạch.

4 - Chương trình nâng cao chất lượng dạy nghề: Quan tâm đầu tư mạnh hơn cho dạy nghề, đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động trên địa bàn tỉnh gần với nhu cầu của doanh nghiệp và nhu cầu xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề cho nông dân gắn với sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
5 - Chương trình phát triển du lịch: Tăng cường đầu tư hạ tầng và kêu gọi các dự án du lịch đầu tư vào các khu vực tiềm năng của tỉnh. Hình thành các sản phẩm du lịch có lợi thế của địa phương; quan tâm đào tạo đội ngũ làm công tác du lịch. Khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh về du lịch văn hóa, lễ hội, tâm linh gắn với du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.

Một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chủ yếu đạt được trong thời gian qua

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm (2006 - 2010), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, nỗ lực phấn đấu và giành được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, một số chỉ tiêu chủ yếu đã đạt và vượt kế hoạch đề ra, cụ thể là:



Giai đoạn 2006-2010, mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính thế giới, sự suy thoái kinh tế ở khu vực và trong nước nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh vẫn đạt ở mức 9%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm dần; công nghiệp - xây dựng tăng 9,9%. Đến hết năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt trên 650 USD; Sản lượng lương thực đạt 642.753 tấn. Giá trị xuất khẩu trung bình hàng năm trên 250 triệu USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30,67% năm 2005 xuống còn 9,78% năm 2010.
Năm 2011 – năm đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVII, tỉnh Bắc Giang vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng đạt 10,5%; tổng diện tích gieo trồng cả năm đạt 176.000 ha, sản lượng lương thực có hạt ước đạt xấp xỉ 664.000 tấn; công nghiệp – xây dựng tăng 18,2%; dịch vụ tăng 9,1%; cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp – xây dựng chiếm trên 36%, dịch vụ trên 31%, nông, lâm, thuỷ sản trên 31%; tổng giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt trên 5.300 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt 760 triệu USD; tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt gần 2.200 tỷ đồng; thu hút trên 273 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài...


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét