Tỉnh Bắc Kạn được tái lập vào ngày 01/01/1997, trên cơ sở tách 04 huyện, thị xã thuộc tỉnh Bắc Thái cũ và 02 huyện thuộc tỉnh Cao Bằng.
Bắc Kạn có tổng diện tích tự nhiên là 4.868,41 km2 và dân số là 294.660 người, với 07 dân tộc anh em cùng sinh sống; trong đó:
- Người Tày chiếm: 54%Bắc Kạn có 08 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị xã và 07 huyện (Thị xã Bắc Kạn, các huyện: Chợ Mới, Chợ Đồn, Bạch Thông, Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rỳ, Pác Nặm), với tổng số 122 xã, phường, thị trấn.
- Người Dao: 16,8%
- Người Kinh: 14%
- Người Nùng: 9%
- Người Mông: 5,5%
- Người Hoa: 0,4%
- Người Sán Chay: 0,3%.
Bắc Kạn, dưới chế độ phong kiến, thực dân
Theo
các nguồn sử liệu, Bắc Kạn thời thượng cổ là phần đất của nước Xích
Quỷ, sau được tách ra thành vương quốc Thụy Đến. Khi Nhà nước Văn Lang
ra đời, các Vua Hùng chia nước thành 15 bộ, vùng đất Bắc Kạn thuộc bộ Vũ
Định. Dưới thời Bắc thuộc, đời Hán, đất Bắc Kạn thuộc huyện Long Biên.
Đến đời Đường, Bắc Kạn thuộc huyện Tân Xương, Châu Phong.
Chiến
thắng Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt một ngàn năm Bắc thuộc, tập đoàn
phong kiến Việt Nam ra đời. Phát huy tính tiên phong trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã
từng bước hoàn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước, khẳng định chủ quyền lãnh
thổ của nước Đại Việt. Đời nhà Lý chia nước thành 24 lộ, địa giới Bắc
Kạn thuộc các lộ Cảm Hoá, Vĩnh Thông, Hạ Nông. Đến đời nhà Trần chia
nước làm 12 lộ, 4 trấn và 14 huyện, Bắc Kạn nằm trong trấn Thái Nguyên.
Khi nhà Minh xâm lược Việt Nam, chúng chia nước ta làm 15 phủ, 31 châu,
31 huyện, trấn Thái Nguyên đổi thành phủ Thái Nguyên gồm 11 huyện, Bắc
Kạn nằm trong địa phận 3 huyện Cảm Hoá, Vĩnh Thông, Long Thạch.
Kháng
chiến chống quân Minh thắng lợi, vua Lê Thái Tổ lập lại chủ quyền, bờ
cõi vẫn như cũ. Đến thời Lê Thánh Tông - năm Quang Thuận thứ 7 (năm
1466), bản đồ nước ta chia thành 12 đạo thừa tuyên, phủ Thái Nguyên đổi
thành thừa tuyên Thái Nguyên. Đến năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1496), Vua
Lê Thánh Tông đổi thừa tuyên Ninh Sóc thành Thái Nguyên thừa tuyên gồm 3
phủ, 8 huyện, 7 châu. Bắc Kạn nằm trong phần đất phủ Thông Hoá.
Đến
thời Nguyễn, năm Gia Long nguyên niên (năm 1802), vua Nguyễn Thế Tổ đổi
Thái Nguyên thừa tuyên thành trấn Thái Nguyên. Năm Minh Mạng thứ 12
(năm 1831), vua Nguyễn Thánh Tổ đổi trấn Thái Nguyên thành tỉnh Thái
Nguyên. Đất Bắc Kạn nằm trong tỉnh Thái Nguyên, về cơ bản vẫn thuộc phủ
Thông Hoá. Có thể nói, dưới chế độ phong kiến, Thái Nguyên, trong đó có
phần đất Bắc Kạn được coi là "miền quan yếu", có vị trí quan trọng về
chính trị, quân sự ở phía Bắc Kinh thành Thăng Long.
Thực
dân Pháp xâm lược, sau khi đánh chiếm và đặt bộ máy cai trị trên địa
phận tỉnh Thái Nguyên, chúng đã nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính.
Theo nghị định ngày 20-8-1891 và nghị định ngày 9-9-1891 của Toàn quyền
Đông Dương, khu vực Bắc Kạn thuộc hai đạo quan binh. Phần phía Đông và
Nam thuộc tiểu quân khu Thái Nguyên, đạo quan binh I. Phần phía Bắc
thuộc tiểu quân khu Lạng Sơn, đạo quan binh II. Ngày 11-4-1900, Toàn
quyền Đông Dương ra nghị định lấy phần đất phủ Thông Hoá lập ra tỉnh Bắc
Kạn gồm các châu Bạch Thông, Chợ Rã, Cảm Hoá (sau đổi thành Na Rì),
Thông Hoá (sau đổi thành Ngân Sơn). Tiếp đó, ngày 25-6-1901, Toàn quyền
Đông dương lại ra nghị quyết tách tổng Yên Đĩnh thuộc huyện Phú Lương
tỉnh Thái Nguyên nhập vào châu Bạch Thông. Năm 1916, theo nghị định của
Thống sứ Bắc Kỳ tách một số tổng của châu Bạch Thông, Chợ Rã và tổng
Định Biên Thượng của châu Định Hoá tỉnh Thái Nguyên lập thành châu Chợ
Đồn. Vào thời gian đó, tỉnh Bắc Kạn có 5 châu, 20 tổng và 103 xã.
Để
đẩy mạnh công cuộc khai thác, bóc lột thuộc địa một cách có hệ thống
trên quy mô lớn, thực dân Pháp đã tăng cường sức mạnh bộ máy cai trị. Vì
thế, phong trào kháng Pháp đã diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn quốc,
trong đó đồng bào các dân tộc ở Bắc Kạn cũng có nhiều đóng góp tích cực.
Năm 1904, đồng bào Dao ở hai xã Tân Sơn, Cao Sơn (Bạch Thông) nổi dậy
chống chính sách s¬u thuế nặng nề của đế quốc, phong kiến. Năm 1914,
ngay tại thị xã Bắc Kạn, các tù nhân yêu nước cùng với binh lính khố
xanh có tinh thần dân tộc do Lý Thảo Long cầm đầu đã nổi dậy phá nhà
lao, phá kho vũ khí của địch để trang bị cho nghĩa quân. Đây là cuộc nổi
dậy có tiếng vang, thúc giục lòng yêu nước, tinh thần quật khởi của
nhân dân trong vùng. Điều đặc biệt mới mẻ trong phong trào yêu nước đầu
thế kỷ XX ở Bắc Kạn, Thái Nguyên là đã có sự tham gia của giai cấp công
nhân. Trong những năm 1920 - 1925, do chính sách khai thác thuộc địa lần
thứ hai của thực dân Pháp, Bắc Kạn trở thành một trong những địa phương
đứng đầu về công nghiệp khai thác mỏ ở Bắc Kỳ, đồng thời là nơi tập
trung nhiều công nhân, góp phần không nhỏ cho sự ra đời của giai cấp
công nhân Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho nhiều người
yêu nước tới hoạt động. Trong đó, Phạm Hồng Thái - một trong những nhân
vật bất tử của cách mạng Việt Nam, người đã ném tạc đạn mưu sát Toàn
quyền Đông dương Méclanh ở Sa Diện (Quảng Châu) - đã từng là công nhân
khai thác mỏ ở Bắc Kạn, Thái Nguyên.
Bắc Kạn trong các thời kỳ cách mạng, kháng chiến
Ngày
3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân Việt Nam
đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình vận động cách mạng, tỉnh Bắc
Kạn đã vinh dự là một trong những tỉnh nằm trong khu giải phóng Việt
Bắc, là nơi "Nước Việt Nam mới phôi thai".
Khi
Cách mạng Tháng Tám nổ ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân
dân các dân tộc Bắc Kạn được giác ngộ đã sớm giành được chính quyền, Bắc
Kạn là thị xã đầu tiên trong cả nước được giải phóng.
Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thị xã Bắc Kạn được mệnh danh là
"Thủ đô kháng chiến". Tỉnh Bắc Kạn được Trung ương Đảng chọn xây dựng
thành khu an toàn (ATK), căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Với
vai trò là căn cứ địa cách mạng, Bắc Kạn hết lòng cưu mang đùm bọc đồng
bào; giúp đỡ bộ đội, cơ quan, xí nghiệp, kho tàng của Trung ương sơ
tán; bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước...
Khi
chiến sự lan rộng đến địa phương, quân và dân Bắc Kạn đã tiến hành tiêu
thổ kháng chiến với chiến lược "vườn không, nhà trống", phá huỷ giao
thông và tham gia cùng bộ đội chủ lực đánh địch. Trong chiến dịch Việt
Bắc (Thu - Đông năm 1947), suốt hai năm đánh địch trên mặt trận đường số
3 nổi tiếng cũng như quá trình tiễu phỉ bảo vệ quê hương, nhiều gương
chiến đấu hy sinh oanh liệt được cả nước biết đến, nhiều tên núi, tên
sông đã trở thành địa danh lịch sử, gắn với những chiến công hiển hách
như Phủ Thông, Đèo Giàng... Cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân ta
buộc thực dân Pháp phải rút chạy, Bắc Kạn trở thành tỉnh đầu tiên được
giải phóng. Sự kiện lịch sử vẻ vang này được Đảng đánh giá cao, được Bác
Hồ gửi thư khen ngợi. Trong thư, Bác đã khẳng định "Cuộc thắng lợi này
sẽ làm đà cho những thắng lợi khác to lớn hơn, vẻ vang hơn".
Sau
ngày được giải phóng (tháng 8 năm 1949), nhân dân các dân tộc Bắc Kạn
hăng hái khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực
đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Một năm sau ngày giải
phóng, Bắc Kạn trở thành địa phương dẫn đầu trong phong trào thi đua
kháng chiến kiến quốc. Năm 1950, Bắc Kạn được Chính phủ tặng Huân chương
Kháng chiến hạng Ba, được vinh dự giữ Cờ luân lưu "Đơn vị có phong trào
thi đua khá nhất" do Hồ Chủ tịch trao tặng.
Với
vai trò và nhiệm vụ là căn cứ địa cách mạng, nhân dân các dân tộc tỉnh
Bắc Kạn đã dồn sức chi viện cho tiền tuyến. Trong hơn tám năm kháng
chiến, nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Kạn đã đóng góp hơn 3 triệu ngày
công trực tiếp phục vụ chiến đấu. Các đoàn thể chính trị, nhất là Hội
Phụ nữ đã thành công trong việc phát động phong trào toàn dân xây dựng
lực lượng vũ trang. Trong hai năm 1952 - 1953, phong trào hũ gạo nuôi
quân và mùa đông binh sĩ đã ủng hộ bộ đội hơn 2.000 tấn l¬ương thực,
2.633 chiếc chăn và áo ấm. Hàng nghìn thanh niên con em các dân tộc đã
lên đường nhập ngũ. Nhiều đơn vị bộ đội địa phương, du kích tập trung đã
lập công xuất sắc, được phong tặng nhiều huân chương, huy chương và
danh hiệu cao quý, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến thần
thánh chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong cuộc chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc, nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang tỉnh Bắc Kạn luôn
thực hiện tốt vai trò tỉnh căn cứ địa, nhiều đơn vị, cá nhân lập công
xuất sắc, được phong tặng nhiều danh hiệu cao quý.
Với
những thành tích đặc biệt xuất sắc trong các cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngày 2-10-2000, Chủ tịch nước Trần Đức
Lương đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân cho nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Bắc Kạn. 5 huyện, thị
xã Bắc Kạn và 17 xã trong tỉnh cũng được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Bắc Kạn trong quá trình xây dựng và đổi mới
Để
đáp ứng yêu cầu là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam đánh Mỹ, ngày
21-4-1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay
là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra Quyết định số
103/NĐ-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn. Ngày 14-4-1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số
50/CP đổi thị xã Bắc Kạn thành thị trấn Bắc Kạn trực thuộc huyện Bạch
Thông. Ngày 29-12-1978, kỳ họp Quốc hội thứ tư khoá VI đã quyết định
phân địa giới Bắc Thái và Cao Bằng, tách 2 huyện Ngân Sơn và Chợ Rã của
tỉnh Bắc Thái nhập vào tỉnh Cao Bằng.
Ngày
16-7-1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số
262/HĐBT "Giải thể thị trấn Bắc Kạn thuộc huyện Bạch Thông để thành lập
thị xã Bắc Kạn thuộc tỉnh Bắc Thái".
Đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân các dân tộc và yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày
6-11-1996, Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ mười đã phê chuẩn việc chia lại
địa giới hành chính của một số tỉnh. Trong đó, tỉnh Bắc Thái được chia
thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Ngày
1-1-1997, tỉnh Bắc Kạn chính thức được tái lập. Các huyện Ngân Sơn, Ba
Bể (Chợ Rã) tái nhập lại vào tỉnh Bắc Kạn. Tháng 8-1998, thành lập thêm
huyện Chợ Mới trên cơ sở tách từ phần đất phía Nam huyện Bạch Thông.
Ngày 28-5-2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2003/NĐ-CP về việc
thành lập huyện Pắc Nặm trên cơ sở tách huyện Ba Bể. Như vậy, trải qua
không ít những thay đổi về địa dư hành chính, hiện nay, tỉnh Bắc Kạn
được chia làm 8 đơn vị hành chính bao gồm 7 huyện (Bạch Thông, Chợ Đồn,
Chợ Mới, Ba Bể, Ngân Sơn, Na Rì, Pắc Nặm) và thị xã Bắc Kạn.
Phát
huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng vẻ vang, trong thời
kỳ xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh đến
nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Bắc Kạn đã không ngừng
phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn, giành được nhiều thành tựu mới
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, nhanh chóng đưa
Bắc Kạn tiến kịp các tỉnh miền xuôi./.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc. Phía Đông giáp Lạng Sơn. Phía Tây giáp Tuyên Quang. Phía Nam giáp Thái Nguyên. Phía Bắc giáp Cao Bằng. Tỉnh có vị trí quan trọng về mặt kinh tế và an ninh quốc phòng.
Bắc Kạn là tỉnh nằm trên quốc lộ 3 đi từ Hà Nội lên Cao Bằng
- trục quốc lộ quan trọng của vùng Đông Bắc, đồng thời nằm giữa các
tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế lớn. Chính quốc lộ 3 chia lãnh thổ
thành 2 phần bằng nhau theo hướng Nam - Bắc, là vị trí thuận lợi để Bắc
Kạn có thể dễ dàng giao lưu với tỉnh Cao Bằng và các tỉnh của Trung Quốc
ở phía Bắc, với tỉnh Thái Nguyên, Hà Nội cũng như các tỉnh của vùng
Đồng bằng sông Hồng ở phía Nam.
Vị
trí của tỉnh có địa hình núi cao, lại ở sâu trong nội địa nên gặp nhiều
khó khăn trong việc trao đổi hàng hoá với các trung tâm kinh tế lớn
cũng như các cảng biển. Mạng lưới giao thông chủ yếu trong tỉnh chỉ là
đường bộ nhưng chất lượng đường lại kém. Chính vị trí địa lí cũng như
những khó khăn về địa hình đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển
kinh tế xã hội của toàn tỉnh.
Về mặt an ninh quốc phòng, Bắc Kạn là một trong những tỉnh từng là căn cứ cách mạng của Việt Nam.
Bắc Kạn có địa hình đa dạng, phức tạp, chủ yếu là đồi và núi cao. Địa hình Bắc Kạn có thể chia làm 3 khu vực:
-
Khu vực phía Đông sừng sững các dãy núi kéo dài tít tắp của cánh cung Ngân Sơn, cánh cung liên tục nhất, điển hình nhất ở vùng Đông Bắc. Đây là dãy núi cao có cấu tạo tương đối thuần nhất. Về kinh tế, địa hình nơi đây chủ yếu thuận lợi phát triển lâm nghiệp.
-
Khu vực phía Tây cũng là khối núi cao chót vót trên lãnh thổ Bắc Kạn. Cấu tạo chủ yếu của núi là đá phiến thạch anh, đá cát kết và đá vôi có lớp dày nằm trên đá kết tinh cổ.
-
Khu vực trung tâm dọc thung lũng sông Cầu có địa hình thấp hơn nhiều. Đây là một nếp lõm được cấu tạo chủ yếu bởi đá phiến, đá vôi, đá sét vôi có tuổi rất cổ, nhưng đá vôi không nhiều. Địa hình nơi đây thích hợp phát triển nông nghiệp, giao thông.
Bắc
Kạn có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nhưng có sự phân hoá theo độ cao
của địa hình và hướng núi. Với chế độ nhiệt đới gió mùa, một năm ở Bắc
Kạn có hai mùa rõ rệt: mùa mưa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 70
- 80% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng
mưa chỉ chiếm khoảng 20 – 25% tổng lượng mưa trong năm, tháng mưa ít
nhất là tháng 12.
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20 - 220C, nhiệt độ thấp tuyệt đối -0,10C ở thị xã Bắc Kạn và -0,60C ở Ba Bể, -20C ở Ngân Sơn, gây băng giá ảnh hưởng lớn đến cây trồng, vật nuôi.
Số
giờ nắng trung bình của tỉnh là 1400 - 1600 giờ. Lượng mưa trung bình
năm ở mức 1400 - 1600mm và tập trung nhiều vào mùa hạ. Độ ẩm trung bình
trên toàn tỉnh là 84%. Bắc Kạn có lượng mưa thấp so với các tỉnh Đông
Bắc do bị che chắn bởi cánh cung Ngân Sơn ở phía Đông Bắc và cánh cung
Sông Gâm ở phía Tây Nam.
Khí
hậu Bắc Kạn có sự phân hoá theo mùa. Mùa hạ nhiệt độ cao, mưa nhiều.
Mùa đông nhiệt độ thấp, mưa ít và chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc.
Nhìn chung, khí hậu của tỉnh có nhiều thuận lợi cho việc phát triển
nông, lâm nghiệp cũng như phát triển một số cây nông phẩm cận nhiệt và
ôn đới.
Bên
cạnh những thuận lợi, Bắc Kạn cũng có nhiều khó khăn do khí hậu như
sương muối, mưa đá, lốc... làm ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động kinh
tế trong tỉnh.
Mạng
lưới sông ngòi Bắc Kạn tương đối phong phú nhưng đa số là các nhánh
thượng nguồn với đặc điểm chung là ngắn, dốc, thuỷ chế thất thường. Bắc
Kạn là đầu nguồn của 5 con sông lớn của vùng Đông Bắc là sông Lô, sông
Gâm, sông Kỳ Cùng, sông Bằng, sông Cầu.
Sông
ngòi có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất và đời sống của nhân dân
tỉnh Bắc Cạn. Trong một chừng mực nhất định, sông ngòi là nguồn cung cấp
nước chủ yếu cho nông nghiệp và ngư nghiệp. Do yếu tố địa hình nên các
sông đa số ngắn, dốc, thuận lợi cho việc phát triển thủy điện cũng như
thu hút khách du lịch bằng những cảnh quan đẹp, hùng vĩ.
Ngoài
hệ thống sông ngòi, Bắc Kạn còn nổi tiếng với hồ Ba Bể. Đây là một
trong những hồ kiến tạo đẹp và lớn nhất nước ta, được hình thành từ một
vùng đá vôi bị sụt xuống do nước chảy ngầm đã đục rỗng lòng khối núi.
Diện tích mặt hồ khoảng 500ha, là nơi hợp lưu của ba con sông Ta Han,
Nam Cương và Cho Leng. Hồ có ba nhánh thông nhau nên gọi là ba Bể. Đây
là một địa điểm có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch của tỉnh.
Bắc
Kạn có nhiều loại đất khác nhau. Nhiều vùng có tầng đất khá dầy, hàm
lượng mùn tương đối cao, đặc biệt một số loại đất là sản phẩm phong hoá
từ đá vôi, thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả.
Nói chung, cùng với khí hậu thích hợp cho nhiều loại cây trồng, vật
nuôi, đất đai trong tỉnh còn khá tốt và là cơ sở quan trọng để phát
triển nông – lâm nghiệp. Về cơ cấu sử dụng đất, diện tích được khai thác
hiệm chiếm hơn 60%, trong đó chủ yếu là đất lâm nghiệp. Hiện diện tích
chưa sử dụng còn khá lớn.
Diện
tích rừng tự nhiên của Bắc Kạn vào loại lớn nhất trong các tỉnh vùng
Đông Bắc (95,3% diện tích). Tài nguyên rừng của tỉnh khá đa dạng, phong
phú. Ngoài khả năng cung cấp gỗ, tre, nứa còn nhiều loại động vật, thực
vật quý hiếm, có giá trị và được coi là một trung tâm bảo tồn nguồn gen
thực vật của vùng Đông Bắc. Hệ động vật của tỉnh Bắc Kạn có giá trị tự
bảo tồn nguồn gen cao với nhiều loại đặc hữu và quý hiếm. Về thực vật,
qua điều tra cho thấy tỉnh Bắc Kạn có 280 loài thực vật, trong đó có 300
loài gỗ, 300 loài cây thuốc, 52 loài đã đưa vào sách đỏ Việt Nam.
Tài nguyên khoáng sản Bắc Kạn tương đối phong phú, đa dạng.
Trong
lòng đất khá giàu kim loại màu và kim loại đen… Đây là một trong những
thế mạnh để phát triển kinh tế – xã hội nói chung và công nghiệp khai
thác nói riêng.
Tỉnh cũng có các khoáng sản khác như sắt, mănggan, ăngtimon, vật liệu xây dựng và đá quý.
Hệ
thống núi thấp và trung bình thuộc cánh cung sông Gâm có các loại đá
xâm nhập granít, rhyonít, granít haimica và các loại phiến biến chất,
thạch anh quắczít, đá sừng…
Cánh
cung Ngân Sơn có các loại granít, rhyonít, phiến sét, thạch anh, đá
vôi… Khối núi đá vôi Kim Hỷ có tuổi cácbon – pecmi màu xám trắng có cấu
tạo kiểu khối, hiểm trở và những biến chất khu vực.
Vùng
núi thấp phía nam tỉnh là nơi quy tụ nhiều dãy núi cánh cung nên có
nhiều loại đá trầm tích có kết cấu hạt mịn, hạt thô và đá mắcma.
I. Đặc điểm tình hình chung
Tỉnh
Bắc Kạn được tái lập từ ngày 01/01/1997 trên cơ sở chia tách 4 huyện,
thị xã của tỉnh Bắc Thái và 2 huyện của tỉnh Cao Bằng. Đến nay tỉnh có 8
đơn vị hành chính, gồm 7 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ với 122 xã, phường,
thị trấn; trong đó còn 74 xã đặc biệt khó khăn. Tổng diện tích tự nhiên
4.857,21 km2, dân số trung bình năm 2006 trên 30 vạn người,
với 7 dân tộc anh em gồm Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông, Hoa, Sán Chay,
trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80%.
Bắc
Kạn là tỉnh nội địa, ở vị trí trung tâm các tỉnh thuộc khu Việt Bắc cũ,
phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam
giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng; thị xã tỉnh lỵ cách
Thủ đô Hà Nội 170 km theo đường Quốc lộ 3. Quốc lộ 3 qua tỉnh dài 123,5
km là đường giao thông quan trọng nhất tỉnh để giao lưu kinh tế - xã
hội với các tỉnh bạn. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các tuyến đường:
Quốc lộ 279 từ Lạng San - huyện Na Rì, qua huyện Ngân Sơn, huyện Ba Bể,
sang tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Hà Giang; Quốc lộ 3B từ Xuất Hoá - thị xã
Bắc Kạn, qua Na Rì, sang huyện Tràng Định - tỉnh Lạng Sơn.
II - Một số kết quả đạt được sau 10 năm tái thành lập tỉnh
Khi
mới tái lập, nền kinh tế chủ yếu là thuần nông; toàn tỉnh có 16 xã chưa
có đường ô tô, 16 xã khác ô tô chỉ đến được trong mùa khô; 2 huyện và
102 xã chưa có điện lưới quốc gia; 93 xã chưa có điện thoại; 71% số
phòng học làm bằng tranh tre, nứa lá… Lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo, Y tế tụt hậu so với địa phương khác trong cả nước. Toàn tỉnh còn có 36% xã chưa đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Số người mắc bệnh bướu cổ chiếm gần 30% dân số. Các tệ nạn cờ bạc, mê tín dị đoan, nghiện các chất ma tuý nhiều bức xúc. Tỷ lệ đói nghèo trên 50% số hộ dân (theo tiêu chuẩn cũ).
Được
sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương,
các tỉnh bạn cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân các dân
tộc trong tỉnh, sau 10 năm tái lập, tỉnh Bắc Kạn đã đạt được những kết
quả khá toàn diện.
Nền kinh tế phát triển khá với tốc độ phát triển bình quân đạt 10,85%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo
hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và giảm dần tỉ
trọng nông - lâm nghiệp. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng
từ 9,6% lên 20,8%; khu vực dịch vụ tăng từ 22,8% lên 38,2% và khu vực
nông, lâm nghiệp giảm từ 61,6 xuống còn 41%. GDP bình quân đầu người trên 4 triệu đồng/năm. Thu ngân sách 105 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 41,42%
(tiêu chí mới). Cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư xây dựng, đến nay
100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số xã, phường, thị trấn có
điện lưới quốc gia; 100% số xã có điện thoại thông tin liên lạc. Các hoạt động văn hoá - xã hội ngày một phát triển. Năm 2005 tỉnh Bắc Kạn đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập Trung học cơ sở. Các chương trình xoá đói giảm nghèo của Chính phủ được triển khai có hiệu quả. Diện mạo nông thôn cũng như các trung tâm huyện lỵ, tỉnh lỵ đang từng ngày đổi thay theo chiều hướng văn minh, sạch đẹp. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố và giữ vững.
III - Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn đến năm 2010
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đã đề ra, Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Kạn quyết tâm thực hiện để đạt được mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 như sau: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn 2006 - 2010 đạt 20%/năm, trong
đó: Nông lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 6,5%/năm, Công nghiệp, XDCB tăng
33%/năm, Dịch vụ tăng 24%/năm; Cơ cấu kinh tế: Nông lâm nghiệp, thuỷ sản
23%, Công nghiệp, XDCB 34%, Dịch vụ 43%; GDP bình quân đạt trên 9 triệu
đồng/người/năm; Tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân đạt 10%/năm;
Kim ngạch xuất khẩu đạt 16 triệu USD; Xoá căn bản hộ đói, giảm hộ nghèo
xuống dưới 20%.
Để
đạt được các mục tiêu chủ yếu trên, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền các
cấp cần tập trung chỉ đạo phát triển những lĩnh vực mà tỉnh có tiềm
năng, phát huy tối đa mọi nguồn lực sẵn có của địa phương, tăng cường mở
rộng hợp tác phát triển kinh tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài.
IV - Tiềm năng và lợi thế của tỉnh
1 - Về Công nghiệp:
Bắc Kạn có tiềm năng phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng.
Trên địa bàn tỉnh có 165 mỏ và điểm quặng, các loại khoáng sản có trữ
lượng lớn là: Chì kẽm 70 mỏ và điểm quặng, trữ lượng khoảng 4 triệu tấn;
sắt có 13 mỏ và điểm mỏ, trữ lượng khoảng 22 triệu tấn; vàng có 17 mỏ
và điểm quặng, trữ lượng khoảng 39 tấn; đá vôi xi măng 150 triệu m3; đá trắng, thạch anh khoảng 460 triệu m3; sét xi măng trên 10 triệu m3, ngoài ra còn có antimon, titan, Kaolin, Silic....
Hiện
nay đã có một số Doanh nghiệp đầu tư xây dựng Nhà máy chế biến quặng
chì kẽm ở quy mô nhỏ, sản phẩm mới chỉ đạt ở mức tinh quặng chì kẽm và
chưa luyện được thành kẽm thỏi có hàm lượng cao.
Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy Silic tại huyện Ngân Sơn đã bắt đầu có
sản phẩm và đang được một số khách hàng trong và ngoài nước quan tâm ký
hợp đồng tiêu thụ.
Với
trữ lượng khoáng sản của Bắc Kạn có triển vọng đầu tư chế biến sâu ở
quy mô vừa và nhỏ để nâng giá trị các loại khoáng sản lên cao hơn và tốt
hơn phục vụ cho các ngành công nghiệp trong nước và tiến đến xuất khẩu.
Đặc biệt là ngành sản xuất vật liệu xây dựng như: xi măng, đá ốp lát, bột đá công nghiệp,rất có triển vọng ở Bắc Kạn.
Ngoài
ra, trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn còn có nhiều hệ suối là đầu nguồn sông
Đáy, sông Gâm, sông Chu… lưu vực nhỏ và độ dốc dòng chảy lớn, lòng hẹp
và có nhiều thác ghềnh thuận tiện cho việc đầu tư các công trình thuỷ
điện nhỏ.
Tỉnh
Bắc Kạn có Khu công nghiệp Thanh Bình thuộc địa bàn xã Thanh Bình huyện
Chợ Mới, nằm dọc trên trục đường QL3 cách trung tâm Hà Nội 130 km. Là
nơi đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư đầu tư vào khu vực, tạo điều kiện
phát triển sản xuất công nghiệp. Tổng diện tích chiếm đất của Khu công nghiệp là 153,8ha.
2 - Về Nông lâm nghiệp
Bắc Kạn có tổng diện tích rừng lâm nghiệp là 420.990,5 ha, trong đó:
Đất có rừng là 263.503,9 ha; rừng tự nhiên 224.151,4 ha, rừng trồng 39.352,5 ha, đất chưa có rừng là 157.484,6 ha.
Đất có rừng là 263.503,9 ha; rừng tự nhiên 224.151,4 ha, rừng trồng 39.352,5 ha, đất chưa có rừng là 157.484,6 ha.
Cơ cấu rừng so với tổng diện tích đất lâm nghiệp như sau: rừng sản xuất 276.557,3 ha, chiếm 65,69%; rừng phòng hộ 118.449,2 ha, chiếm 28,14%; rừng đặc dụng 25.984 ha, chiếm 6,17%.
Sản lượng gỗ khai thác hàng năm trên 63.000 m3.
Điều kiện tự nhiên của Bắc Kạn rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng như Ngô, Khoai, Sắn... tỉnh đang ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trồng các loại cây cao sản như: Cà chua, dưa hấu, các loại rau sạch ở thị xã Bắc Kạn, huyện Bạch Thông và trồng hoa xuất khẩu ở Đồn Đèn - Hồ Ba Bể. Ngoài ra diện tích đất đồi rừng đã giao cho nông dân có thể trồng các loại cỏ làm thức ăn chăn nuôi.
Điều kiện tự nhiên của Bắc Kạn rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng như Ngô, Khoai, Sắn... tỉnh đang ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trồng các loại cây cao sản như: Cà chua, dưa hấu, các loại rau sạch ở thị xã Bắc Kạn, huyện Bạch Thông và trồng hoa xuất khẩu ở Đồn Đèn - Hồ Ba Bể. Ngoài ra diện tích đất đồi rừng đã giao cho nông dân có thể trồng các loại cỏ làm thức ăn chăn nuôi.
Hiện nay tỉnh đang thực hiện đề án lớn về phát triển chăn nuôi trâu, bò giai đoạn 2006 - 2010. Việc thực hiện Đề án
phát triển đàn trâu, bò đã được nhân dân nhiệt tình ủng hộ và đã hình
thành Chợ mua bán gia súc (Chợ Bò xã Nghiên Loan huyện Pác Nặm). Ngoài
ra tỉnh Bắc Kạn có thể phát triển mạnh ngành chăn nuôi lợn (heo), Gà,
Dê... và nuôi cá Hồi phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
3 - Về Du lịch:
Tỉnh
Bắc Kạn được thiên nhiên ban tặng cho một danh lam thắng cảnh là Hồ Ba
Bể. Hồ Ba Bể là một trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất thế giới. Hồ
có diện tích rộng 500 ha, nằm trong khu vực vườn quốc gia Ba Bể, có hệ
thống rừng nguyên sinh trên núi đá vôi với 417 loài thực vật, 299 loài
động vật có xương sống, trong hồ có 49 loài cá nước ngọt. Hiện nay đang trình UNESCO công nhận vườn quốc gia Ba Bể là di sản thiên nhiên thế giới.
Ngoài
ra gần khu vực thị xã Bắc Kạn còn có 02 địa điểm có thể đầu tư xây dựng
khu du lịch sinh thái và hệ thống vui chơi giải trí khá lý tưởng là Khu
du lịch sinh thái Thác Bạc và Khu du lịch sinh thái Nặm Cắt, cách thị
xã Bắc Kạn chỉ khoảng chừng trên 10 km.
Bắc
Kạn có nhiều di tích lịch sử được xếp hạng, đặc biệt là các di tích
cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như khu ATK
Chợ Đồn; Khu di tích Nà Tu, Cẩm Giàng; Phủ Thông; Đèo Giàng.
4. Về nguồn lực con người:
Nguồn
nhân lực của tỉnh Bắc Kạn tuy không đông về số lượng bằng các tỉnh
thành khác, nhưng Bắc Kạn rất tự hào với những người con của tỉnh hiện
đang có học hàm và học vị cao đang công tác ở một số Bộ ngành TW. Một số Đồng chí đang giữ vị trí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, nhân hậu, cần cù, chịu khó và có truyền thống đoàn kết rất tốt đẹp.
Hiện
nay tỉnh Bắc Kạn có trên 6.000 người có trình độ Trung cấp và Cao Đẳng,
trên 3.000 người có trình độ Đại học, gần 100 Thạc sỹ và 5 Tiến sỹ hiện
đang công tác tại tỉnh.
Nguồn lao động của tỉnh Bắc Kạn khá dồi dào, hiện có khoảng gần 200.000 lao động. Hiện tại số người lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 164.025 người. Nguồn nhân
lực của tỉnh Bắc Kạn khá đông có thể cung ứng đủ nhu cầu về lao động cho các Doanh nghiệp có dự án đầu tư tại tỉnh Bắc Kạn với giá thuê nhân công rẻ hơn các nơi khác. Tuy nhiên nếu cần lao động lành nghề và lao động có trình độ kỹ thuật cao thì cần tiếp tục đào tạo nâng cao...
5. Một số lợi thế khác
*
Về giao thông và kết cấu hạ tầng: Tuy Bắc Kạn là tỉnh nằm sâu trong lục
địa, song có Quốc lộ 3 nối từ Hà Nội đến cửa khẩu Tà Lùng tỉnh Cao Bằng
hiện đã được cải tạo nâng cấp và khá thuận lợi cho việc vận chuyển hàng
hoá. Khoảng cách từ tỉnh Bắc Kạn đến cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị và cửa
khẩu Tân Thanh - Lạng Sơn khoảng 200 km, đường bộ từ thị xã Bắc Kạn đến
Sân bay Nội Bài 150 km và Cảng Hải phòng chỉ trên 200 km. Như vậy có thể
thấy việc giao lưu thông thương hàng hoá từ Bắc Kạn đến các cửa khẩu
của Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng và Hà Nội là khá thuận
tiện.
-
Hệ thống điện lưới quốc gia và hệ thống thông tin liên lạc đã được đầu
tư đến tất cả các xã, các trung tâm thị trấn, thị xã đã phủ sóng điện
thoại di động.
* Về khí hậu thuỷ văn:
Khí hậu của Bắc Kạn có nhiều nét đặc trưng như sau:
Khí hậu của Bắc Kạn có nhiều nét đặc trưng như sau:
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20 đến 22 độ C, trung bình cao nhất từ 25 đến 28 độ C, trung bình thấp nhất từ 10 đến 11 độ C.
Với chế độ nhiệt như vậy, đã hình thành trên địa bàn tỉnh nhiều tiểu
vùng khí hậu đất đai khác nhau, thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật
nuôi tạo thế mạnh cho từng khu vực, với các loại sản phẩm đặc trưng của
vùng nhiệt đới và á nhiệt đới.
Về
gió bão: Bắc Kạn nằm sâu trong nội địa lại có núi sâu che chắn nên ít
bị ảnh hưởng của bão. Bão đến Bắc Kạn thường ít gây tác hại, chỉ có nước
lớn và lũ trên các sông suối…
Hệ
thống sông suối trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn phân bố khá dày hặc song hầu
hết đều rất ngắn, lưu vực nhỏ và độ dốc dòng chảy lớn, lòng hẹp và có
nhiều thác ghềnh. Bắc Kạn là đầu nguồn của 5 con sông chính:
- Sông Lô, Sông Gâm chảy sang Tuyên Quang.
- Sông Bằng Kỳ cùng chảy qua huyện Na Rì sang tỉnh Lạng Sơn rồi đổ sang Trung Quốc.
- Sông Bằng Giang chảy về Cao Bằng.
- Sông Cầu là hệ thống sông lớn nhất trên địa bàn tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi Hoa Nam, chảy qua Bạch Thông sang Thái Nguyên rồi đổ về Bắc Ninh. Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, Sông Cầu dài khoảng 60 km, rộng 120-150 m.
- Sông Lô, Sông Gâm chảy sang Tuyên Quang.
- Sông Bằng Kỳ cùng chảy qua huyện Na Rì sang tỉnh Lạng Sơn rồi đổ sang Trung Quốc.
- Sông Bằng Giang chảy về Cao Bằng.
- Sông Cầu là hệ thống sông lớn nhất trên địa bàn tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi Hoa Nam, chảy qua Bạch Thông sang Thái Nguyên rồi đổ về Bắc Ninh. Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, Sông Cầu dài khoảng 60 km, rộng 120-150 m.
Với
những tiềm năng, lợi thế như trên, tỉnh Bắc Kạn rất mong sẽ sớm được
đón tiếp các nhà đầu tư vào tỉnh, góp phần xây dựng quê hương Bắc Kạn
giàu đẹp, văn minh và phát triển bền vững./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét