Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

chim trĩ giống , bán chim trỉ thịt gia re , trĩ đỏ, xanh , bảy 7 màu cung cấp ở tại bạc liêu , ban chim tri thit , cung cap chim tri giong o tai bac lieu giá rẻ

Giới thiệu về Bạc Liêu Thứ Bảy, 17/07/2010, 15:10
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Tỉnh Bạc Liêu nằm ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có toạ độ từ 9000’00’’ đến 9037’30’’ vĩ độ bắc và từ 105015’00” đến 105052’30” kinh độ đông, cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km (về phía bắc). Phía bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang, phía đông và đông bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía tây và tây nam giáp tỉnh Cà Mau, phía đông và đông nam giáp biển Đông.
Dân số
Dân số tỉnh Bạc Liêu là 856.250 người (01/4/2009), ba dân tộc chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm khoảng 90% dân số) – dân tộc Khmer (chiếm khoảng 7% dân số) và dân tộc Hoa (chiếm khoảng 3% dân số).
Đơn vị hành chính
Ngày 1-1-1997, Bạc Liêu được tái lập với 4 đơn vị hành chính gồm: 3 huyện (Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai) và thị xã Bạc Liêu, trong đó thị xã Bạc Liêu là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh. Đến cuối năm 2005, tỉnh Bạc Liêu có 6 huyện (chia tách từ 3 huyện cũ) là Phước Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Hoà Bình, Giá Rai, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu.
Đất đai, địa hình
Đất đai: Bạc Liêu có diện tích đất tự nhiên 2.594 km2 .
Địa hình: khá bằng phẳng, không có đồi, núi nên không có các chấn động địa chất lớn. Địa hình cơ bản là đồng bằng với các cánh đồng rộng mênh mông, sông rạch và kênh đào chằng chịt.
Khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô (mùa nắng) bắt đầu từ tháng 10-11 năm trước đến tháng 4 - 5 năm sau; mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 - 5 đến tháng 10 - 11.
Nhiệt độ trung bình năm 28,50C, nhiệt độ thấp nhất trong năm là 210C (vào mùa mưa), nhiệt độ cao nhất trong năm là 360C (vào mùa nắng). 
Tài nguyên
- Tài nguyên rừng và động - thực vật: rừng Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn như: tràm, chà là, giá, cóc, lâm vồ,... Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loài dây leo. Theo Viện sinh học nhiệt đới, rừng Bạc Liêu có 104 loài thực vật, 10 loài thú nhỏ, 8 loài bò sát,...
Sau khi các kênh xáng được đào xong, đại bộ phận đất ngập úng ở Bạc Liêu được ngăn mặn, xổ phèn. Kết quả, hơn 240 nghìn ha đất hoang hoá trở nên màu mỡ. Bạc Liêu nhanh chóng trở thành tỉnh đứng đầu Nam Kỳ về diện tích trồng lúa nước; đứng thứ hai (sau Kiên Giang) về nguồn lợi thuỷ sản.
Ngoài ra, Bạc Liêu có 01 vườn chim hoang dã (diện tích hơn 30 ha) ở xã Hiệp Thành, cách thị xã Bạc Liêu khoảng 3 km (về phía đông); hai vườn cò ở thị trấn Phước Long và Vĩnh Phú Tây (huyện Phước Long); một vườn chim với loài giang sen quý hiếm ở huyện Đông Hải. Đặc biệt, vườn chim Bạc Liêu là
vườn chim lớn nhất trong tỉnh với khoảng hơn 40 loài chim, số lượng hơn 60 nghìn con, gồm nhiều loại như: điên điển, quắm trắng, quắm đen, chằn bè, cò lông bông, le le, vịt nước, còng cộc, vạc, cò ngà, cò trắng, giang sen, mỏ thác, ốc cao, thằng chài, diệc Sunatra,... Vườn chim Bạc Liêu là một trong những khu vực được đưa vào hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia của Việt Nam.
- Hệ thống sông ngòi: Bạc Liêu có hệ thống sông ngòi, kênh đào chằng chịt, cơ bản chia làm hai nhóm:
Nhóm 1: chảy ra hải lưu phía nam, gồm: sông Gành Hào (dài 55 km) có các nhánh là rạch Giồng Ké, rạch Lộ, rạch Nhà Thờ, rạch Cái Keo, rạch Gốc,...; sông Mỹ Thanh (70 km) có các nhánh là rạch Lé, rạch Bạc Liêu, rạch Trò Nho, rạch Trà Niêu, rạch Trà Teo, trong đó rạch Bạc Liêu dài 35 km.
Nhóm 2: chảy ra sông Ba Thắc (thường gọi là sông Hậu, tức Hậu Giang). Nhóm này gồm rạch Ba Xuyên và các nhánh nhỏ của rạch Ba Xuyên.
Về kênh đào: để tháo phèn phục vụ sản xuất và phục vụ nhu cầu giao thông, giai đoạn 1901 - 1903, chính quyền thực dân đã đào kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp dài 140 km, đoạn Bạc Liêu - Cà Mau dài 48, 5 km. Đến năm 1915, chính quyền thực dân lại dùng xáng nạo vét mở rộng kênh đào Bạc Liêu - Cà Mau (dài 66 km) và đào thêm kênh Bạc Liêu - Cổ Cò (dài 18 km). Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), chính quyền thực dân tiếp tục khai thác vùng đất Bạc Liêu với quy mô lớn hơn: năm 1920, đào kênh xáng Hộ Phòng - Chủ Chí - Chợ Hội (dài 29 km) và kênh Giá Rai - Phó Sinh - Cạnh Đền (dài 33 km); năm 1925, đào kênh xáng Lộ Bẻ - Gành Hào dài 18 km; năm 1931 đào kênh xáng Xóm Lung - Cống Cái Cùng (dài 13 km), kênh xáng cầu số II - Phước Long (dài 24 km) và kênh xáng Cầu Sập - ngã tư Vĩnh Phú - Ngan Dừa (dài 49,5 km).
- Biển: Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km. Biển Bạc Liêu có nhiều loài tôm, cá, ốc, sò huyết,... Hàng năm, sản lượng khai thác đạt gần 100 nghìn tấn cá, tôm. Trong đó, sản lượng tôm gần 10 nghìn tấn.
Bờ biển thấp và phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối, trồng trọt hoặc nuôi tôm, cá. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một tăng. Đây là điều kiện lý tưởng cho Bạc Liêu phát triển thêm quỹ đất, đồng thời là yếu tố quan trọng đưa kinh tế biển của Bạc Liêu phát triển.
Nguồn: Bạc Liêu thế và lực trong thế kỷ XXI
Lịch sử hình thành
Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu vẫn ngày càng trù phú do phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự “chung sức, đồng lòng” dựng xây quê hương của ba dân tộc Kinh, Khơme và Hoa.
Năm 1680, Mạc Cửu, một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu.  
Năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu là Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập dinh trại đồn trú tại Phương Thành, nhân dân quy tụ ngày càng đông.
Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất phương Nam thuộc về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang, Trấn Di được bãi bỏ.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia Định cai quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long), Hà Tiên.
Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ Hà Tiên đến Cà Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc Trăng và Bạc Liêu tính đến cửa biển Gành Hào.
Ngày 5-1-1867, thực dân Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ. Đến ngày 5-6-1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 24 khu tham biện (inspection - có người dịch là khu thanh tra) do các viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm.
Năm 1877, Pháp điều chỉnh Nam Kỳ còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18-12-1882, Pháp cắt 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thuỷ của đại lý (Dlégation) Cà Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và hai tổng Thạnh Hoà, Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu). Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ, lúc đầu có 2 đại lý: Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu.
Ngày 20-12-1899, toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1-1-1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn Nam Kỳ. 
Năm 1904, quận Vĩnh Lợi cắt một phần đất phía bắc nhập thêm vào quận Vĩnh Châu. Diện tích của tỉnh Bạc Liêu lúc này là 740 nghìn ha.
Năm 1918, chính quyền thực dân Pháp cắt một phần đất phía nam quận Vĩnh Lợi và một phần đất phía bắc quận Cà Mau thành lập quận Giá Rai.
Ngày 25-10-1955, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143/NV phân định lại địa phận hành chính các tỉnh miền Nam, sáp nhập các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu vào Sóc Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Toàn bộ vùng đất quận Cà Mau lập thành tỉnh An Xuyên.
Ngày 8-9-1964, Ngụy quyền Sài Gòn ký Sắc lệnh số 254/NV tái lập tỉnh Bạc Liêu gồm các quận: Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Phước Long (Rạch Giá). Địa  phận này tồn tại cho đến ngày 30-4-1975.
Về phía chính quyền cách mạng: việc phân chia địa giới hành chính tỉnh Bạc Liêu trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ khác hẳn chính quyền Sài Gòn. Năm 1947, quận Hồng Dân thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú về quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc Trăng, đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển.
Ngày 13-11-1948, cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu. Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc Liêu. Làng Châu Thới hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới.
Năm 1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Đồng thời, tỉnh Bạc Liêu tiếp nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, năm 1955, huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc Liêu, huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh Lợi và thị xã Bạc Liêu được tái lập.
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây chia các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu.
Năm 1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định tách huyện Vĩnh Châu khỏi huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, thành lập huyện Vĩnh Châu.
Tháng 11-1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu.
Vào đầu năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam hợp nhất hai tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau, đến gần giữa năm 1976 tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải.
Ngày 1-1-1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập lần thứ hai và giữ nguyên cho đến ngày nay.
Xuất xứ tên gọi Bạc Liêu
Danh xưng “Bạc Liêu”, đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo, có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là  “Bạc” và Léo phát âm là “Liêu”.
Một giả thuyết khác cho rằng: Pô là bót, đồn. Liêu là Lào (Ai Lao) theo tiếng Khơme, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào.
Còn người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên gọi vùng đất này là Phêcheri - chaume (đánh cá và cỏ tranh). Ngoài ra còn một số giả thuyết khác.
Nguồn: Bạc Liêu Thế và Lực trong thế kỷ XXI
Vài nét về tính cách và văn hóa của người Bạc Liêu
Về mặt lịch sử, vùng đất Bạc Liêu mới hình thành trên 200 năm. Do điều kiện đất đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Dân cư không hình thành từ “lũy tre làng”, “cha truyền con nối”. Dân cư Bạc Liêu đa số là dân “xiêu tán”, nghèo khổ “tha phương cầu thực”. Họ định cư rải rác trên các gò đất cao, trên các bờ sông, các kinh xáng. Người Kinh, người Khơ-me, người Hoa đã đan xen nhau, luôn tương trợ, đoàn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích “làm ăn lớn”. Phong cách ứng xử người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phác, bộc trực, dám phản kháng mạnh mẽ trước bất công xã hội.
Ở Bạc Liêu, có 3 dòng văn hóa đan xen nhau đó là: văn hóa Kinh, văn hóa Khơ-me, văn hóa người Hoa, trong quá trình hội nhập, phát trển.Hàng năm trên vùng đất Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội. Người Kinh có lễ hội cúng đình, thờ thần hoàng bổn cảnh có công với nước được triều đình nhà Nguyễn Sắc phong. Ngoài ra còn có đại lễ Kỳ Yên còn gọi là lễ thượng điền giữa tháng 5 âm lịch, lễ thắp miếu còn gọi là lễ hạ điền vào giữa tháng 12 âm lịch.Đồng bào Khơ-me có lễ hội vào năm mới (Chol-Chnam-Thmây) vào giữa tháng 4 dương lịch, lễ hội chào mặt trăng (Oóc-Om-Boóc) vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, lễ hội Đôn-ta nhằm thực hiện việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật.
Đồng bào Hoa có lễ cúng Thanh Minh vào tháng 3 âm lịch, lễ thí giàng vào tháng 7 âm lịch.
Trong giao tiếp, lớp người trung niên giữa Kinh và Khơ-me hay kết thân nhau làm “ní” (người cùng tuổi). Trai, gái Kinh và Hoa thường gọi nhau là “hia”, “chế” thay cho từ anh, chị.Về văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu, có bản vọng cổ của bác Sáu Lầu, chuyện vui bác Ba Phi, nói thơ điệu Bạc Liêu của ông Thái Đắc Hàn, vè của ông Bửu Trượng.
Tính cách người dân Bạc Liêu dưới thời Pháp thuộc in đậm tính cách lưu dân người Việt “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ; đủ đạo đức làm dân mà ít thuộc kinh truyện”. Trước đây một số ngươi giàu ở Bạc Liêu có quan niệm “lấy táu đong lúa chứ không ai lấy táu đong chữ”. Điển hình là Ba Huy con ông Hội đồng Trần Trinh Trạch, một thời tiêu xài “xả láng” để đồng bào cả nước mỉa mai sự xa xỉ đó bằng tên gọi “công tử Bạc Liêu”.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, vùng đất Bạc Liêu trở thành căn cứ kháng chiến của Nam bộ. Trường học mọc lên đều khắp. Bộ mặt văn hóa khác hẳn xưa. Tuy vậy Bạc Liêu vẫn chưa có những công trình, những tác phẩm nghệ thuật tương xứng với bề dầy lịch sử của nó.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu (Tập I)
Danh sách các di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Bạc Liêu
DI TÍCH CẤP QUỐC GIA
1. Đồng Nọc Nạng, năm sự kiện 1928, địa điểm ấp 4 xã Phong Thạnh, huyện Giá Rai. Bộ VHTT xếp hạng (nay là công nhận) là di tích Lịch sử năm 1991.
2. Tháp Vĩnh Hưng, thời điểm xây dựng khoảng thế kỷ IV – XIII, địa điểm ấp Trung Hưng, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1992.
3. Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xây dựng năm 1972, địa điểm ấp Bà Chăng, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. Bộ VHTT xếp hạng là di tích Lịch sử năm 1998.
4. Đình An Trạch, xây dựng năm 1877, địa điểm khóm 2, F5, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
5 Thành Hoàng Cổ Miếu (chùa Minh), xây dựng năm 1865, tại F3, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
6. Phước Đức Cổ Miếu (Chùa Bang), xây dựng năm 1780, tại F3, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
7. Phước Đức Cổ Miếu (Miếu Ông Bổn), xây dựng năm 1871, tại Trà Kha B, F8, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2005.
8. Chùa Kro Pum Mean Chey Kos Thum (chùa Cỏ Thum), xây dựng năm 1832, địa điểm ấp Cỏ Thum, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, Bộ VHTT xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2006
DI TÍCH CẤP TỈNH
1. Đình Phong Thạnh, xây dựng đầu thế kỷ 19, tại ấp 4 thị trấn Giá Rai, huyện Giá Rai. UBND tỉnh Minh Hải xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1996.
2. Đền Thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xây dựng năm 1972, tại xã Long Điền, huyện Đông Hải, UBND tỉnh Minh Hải xếp hạng là di tích lịch sử năm 1996.
3. Tiên Sư Cổ Miếu, xây dựng năm 1855, tại phường 7, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
4. Khu Mộ cố Nhạc Sĩ Cao Văn Lầu, xây dựng năm 1976, tại F2, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 1997.
5. Thiên Hậu Cổ Miếu (chùa Bà Thiên Hậu), xây dựng năm 1901, tại F1,TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
6. Đền Thờ Trần Quang Diệu, xây dựng năm 1917, tại xã Phong Thạnh Tây A, huyện Phước Long. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2000.
7. Chùa Long Phước (chùa Cô Bảy), xây dựng năm 1840, tại F5, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
8. Chùa Vĩnh Đức, xây dựng năm 1890, tại F1, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
9. Chùa Giác Hoa ( Chùa Cô Hai Ngó), xây dựng năm 1919, tại xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
10. Chùa Kom Phi Sakor Prêkchou (chùa Xiêm Cán), xây dựng năm 1887, tại xã Vĩnh Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2001.
11. Khu căn cứ Huyện ủy Vĩnh Lợi (1971 - 1975), xây dựng năm 1971, tại ấp Trà Hất xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2005.
12. Khu căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu (1973 - 1975), xây dựng năm 1973, tại ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2006.
13. Thành Hoàng Cổ Miếu, xây dựng năm 1870, tại Thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2006.
14. Đình Nguyễn Trung Trực (đình An Trạch), xây dựng năm 1885, tại ấp Thành Thưởng, xã An Trạch, huyện Đông Hải. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
15. Sự kiện lịch sử Ninh Thạnh Lợi năm 1927, tại ấp Chủ Trọt, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
16. Đồng Hồ Thái Dương (Đồng hồ Đá), xây dựng đầu TK 20, tại F3, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
17. Đình Bình An, xây dựng cuối TK 19, tại ấp Láng Giài, TT Hòa Bình, huyện Hòa Bình. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2008.
18. Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tỉnh Bạc Liêu, tháng 2/1930, tại ấp Rạch Rắn, xã Long Điền, huyện Đông Hải. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2008.
19. Miếu Bà Thiên Hậu, xây dựng trên 100 năm, tại xã Vĩnh Mỹ A, huyện Hòa Binh, UBND tỉnh công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2008.
20. Bia kỷ niệm trận đánh Cầu Trâu, năm sự kiện 1962, tại xã Châu Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, ghi nhớ chiến công của anh hung liệt sĩ Mai Thanh Thế. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2009./.
Nguồn: Sở VH-TT&DL tỉnh Bạc Liêu

Thêm 4.500 hộ dân nông thôn Bạc Liêu được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh
Ngày 10/1, tỉnh Bạc Liêu tổ chức lễ khánh thành đưa trạm cấp nước sạch tại ấp Thị Trấn B (thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình) vào hoạt động. Đây là một trong những công trình cấp nước sạch có công nghệ đầu tư hiện đại và quy mô lớn nhất được xây dựng ở vùng nông thôn tỉnh Bạc Liêu.

Sau một năm khởi công xây dựng, trạm cấp nước Thị Trấn B, Hòa Bình được đầu tư dây chuyền vận hành bằng công nghệ xử lý nước hiện đại, gồm hệ thống các công trình: giếng khoan, nhà máy xử lý nước, trạm biến áp, các tuyến ống, hệ thống nhà điều hành, nhà kho, nhà hóa chất, phòng thí nghiệm… nhà máy có công suất xử lý 1.600m3 nước/ngày, đủ khả năng đáp ứng nước sạch cho 4.500 hộ dân sử dụng. Tổng mức đầu tư 35,9 tỷ đồng, nguồn kinh phí từ chương trình mục tiêu quốc gia.  
Ông Trần Thanh Tâm, Chủ tịch UBND huyện Hòa Bình phấn khởi cho biết: Việc đưa trạm cấp nước vào hoạt động trong ở thời điểm này khiến bà con rất vui mừng vì có được nguồn nước họp vệ sinh sử dụng, đáp ứng nhu cầu người dân khi sắp đến Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013. Đặc biệt, là đối với địa phương, địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, đời sống kinh tế còn nghèo, chưa có điều kiện khoan giếng nước, còn sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh.   
Đến nay, toàn tỉnh Bạc Liêu có 96 trạm nước sạch tập trung cung cấp cho hơn 30.000 hộ dân nông thôn, đạt gần 60% hộ dân sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Y tế. Ngoài ra, Bạc Liêu còn có hàng trăm ngàn giếng nước khoan nhỏ lẻ, cung cấp nước sinh hoạt cho hàng chục ngàn hộ dân.  
Huỳnh Sử_Nguồn:BTN&MT
Cần trang bị cho cộng đồng kinh nghiệm bảo vệ nguồn nước
Ngày 1/1/2013 Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) chính thức có hiệu lực, cũng là lúc hạn hán đang hoành hành ở nước ta và trên một phần ba cộng đồng dân cư không biết làm gì để bảo vệ sông ngòi…
Trung tâm con người và thiên nhiên hơn một năm trước khảo sát lấy ý kiến của 1.300 hộ dân tại 9 xã ở 3 tỉnh thành tại các lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông La, sông Vu Gia, sông Thu Bồn xung quanh tác động của phát triển đối với sông ngòi, tài nguyên nước, ảnh hưởng tới sinh kế nhai. Chỉ 30% những bức xúc của người dân về vấn đề suy thoái sông ngòi được phản hồi. Trên 30% cộng đồng dân cư không biết làm gì để bảo vệ sông ngòi. Mà rõ ràng sông cạn, nước ô nhiễm, những người dân cận kề và phải phụ thuộc vào nước sông để sinh hoạt, tưới tiêu cây trồng là đối tượng bị chi phối nhiều nhất, bức xúc nhất.

Tại Hội thảo "Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và tổ chức lưu vực sông” cuối năm 2012, nhấn mạnh một điểm mới của Luật Tài nguyên nước, ông Lê Hữu Thuần, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên Nước, Bộ Tài nguyên& Môi trường cho biết, đó là chủ các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên nước, và cả xả nước thải vào nguồn nước phải lấy ý kiến của cộng đồng dân cư, tổ chức, thậm chí cá nhân liên quan. Việc đưa nội dung này vào nhằm thực hiện chủ trương dân chủ hoá ở cơ sở, đề cao trách nhiệm của chủ đầu tư dự án, minh bạch thông tin về những tác động tiêu cực có thể gây ra ngay từ khi chuẩn bị thực hiện.

Các chuyên gia quốc tế cũng từng khuyên Việt Nam nên trang bị cho cộng đồng kinh nghiệm phản biện cũng như thúc đẩy cộng đồng tham gia bảo vệ nguồn nước. Cứu các dòng sông phải đẩy thành phong trào. Phải tạo được phong trào phục hồi các dòng sông bắt nguồn từ chính những người dân, đến các cấp chính quyền cùng các tổ chức xã hội dân sự, mạnh mẽ hơn nữa. "Thần nước” phải xuất hiện ở mọi nơi, phải cứu lấy các con sông, nếu không khó nói chuyện bảo vệ nguồn nước.

Biến đổi khí hậu khuấy động tài nguyên nước khiến Việt Nam sẽ có nhiều đợt hạn hán, lũ lụt hơn. Hạn hán kéo dài hơn, tồi tệ hơn. Nhiều khu vực nước ngọt cũng sẽ bị xâm nhập mặn, khả năng chống chọi với bão lũ giảm đi… Các chuyên gia đã liên tục cảnh báo. Được trang bị Luật Tài nguyên nước, cộng đồng dân cư không thể tiếp tục "không biết làm gì” để bảo vệ sông ngòi, trong khi nước ta có 2.360 sông và 26 phân lưu, hơn 7.000km đê sông và đê biển, rất nhiều các sông đều có đập dâng, hồ chứa thủy lợi, thủy điện…

Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng dân cư hãy xiết chặt tay nhau hơn, khẩn cấp bảo vệ nguồn nước khi chưa quá muộn.
Đổi mới tư duy trong suy nghĩ và hành động
“Trung tâm Quy hoạch & Điều tra tài nguyên nước cần thay đổi cách nghĩ, cách làm và tự thân vận động”, Thứ trưởng Nguyễn Thái Lai đã chỉ đạo như vậy tại Hội nghị tổng kết thực hiện nhiệm vụ năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2013 của Trung tâm sáng 8/1. Cùng dự có đại điện các Vụ chức năng thuộc Bộ.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Thái Lai phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Thứ trưởng biểu dương cán bộ công nhân viên Trung tâm đã vượt lên khó khăn do tình hình kinh tế cả nước khó khăn, nguồn nhân lực và tài chính hạn chế, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn và các nhiệm vụ khác, ký kết nhiều hợp đồng dịch vụ, tạo nhiều việc làm, ổn định và cải thiện đời sống người lao động.
 Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ năm 2013, Trung tâm cần khắc phục một số hạn chế như: Kéo dài một số dự án, không đáp ứng nhu cầu về thông tin, số liệu, bị trượt giá, làm tăng giá công trình. Xây dựng đề cương dự án chưa sát với thực tế nên thiếu tính khả thi. Cơ sở trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu, nguồn nhân lực, nhất là công tác xây dựng quy hoạch còn hạn chế.
Thứ trưởng Nguyễn Thái Lai nhấn mạnh: Trung tâm cần năng động hơn trong việc khai thông nguồn vốn, đa dạng hóa các nguồn công việc; đặc biệt là phối hợp với các đơn vị trong Bộ để tìm thêm các dự án, tạo nhiều việc làm cho cán bộ công nhân viên, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về kết quả hoàn thành các dự án quan trọng nhằm nâng cao vị thế của Trung tâm nói riêng và ngành tài nguyên nước nói chung.
Trước đó, báo cáo thực hiện nhiệm vụ của Trung tâm cho thấy: Năm 2012, Trung tâm được giao 18 đề án điều tra, 14 nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, 01 nhiệm vụ quy hoạch, 01 nhiệm vụ đối ứng dự án ODA… Đến nay, các dự án này cơ bản hoàn thành tiến độ, đảm bảo chất lượng. Nổi bật nhất là đề án Điều tra, đánh giá chi tiết tài nguyên nước dưới đất khu vực thị trấn Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang, Đề án Đánh giá nguồn nước dưới đất vùng Đức Hòa - Long An; Điều tra, đánh giá nước dưới đất các vùng đặc biệt thiếu nước sinh hoạt các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận; Đánh giá nguồn nước vùng Đức Phổ - Quảng Ngãi… Đối với nhiệm vụ khoa học, Trung tâm đã thực hiện 05 đề tài cấp Bộ, 01 đề tài cấp cơ sở; mở mới 03 đề tài cấp Bộ, 05 đề tài cấp cơ sở. Đến này, các chủ nhiệm đề tài đã hoàn thành khối lượng đúng tiến độ và chất lượng.
Năm 2013, Trung tâm tập trung thi công Dự án Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị; Lập nhiệm vụ Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Sêrêpok; Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Bằng Giang - Kỳ Cùng; thực hiện 13 nhiệm vụ chuyển tiếp, 04 nhiệm vụ mở mới như: Lập bản đồ địa chất thủy văn tỉ lệ 1:50.000 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận; đánh giá tài nguyên nước vùng Thủ đô Hà Nội
Thủy điện Sơn La: Niềm tự hào của đội ngũ xây dựng thủy điện Việt Nam
Ngày 23/12/2012, tại Sơn La, Tập đoàn Điện lực Việt Nam tổ chức Lễ khánh thành Công trình Thủy điện Sơn La.Tham dự Lễ khánh thành có Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Bộ ngành liên quan và đại diện chính quyền, nhân dân các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu; Tập đoàn Điện lực Việt Nam (chủ đầu tư), Ban QLDA NMTĐ Sơn La (đại diện chủ đầu tư), Tổng thầu, các nhà thầu thành viên, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, các nhà thầu cung cấp thiết bị v.v...
ễ khánh thành Công trình Thủy điện Sơn La

Dự án Thủy điện Sơn La với công suất lắp đặt 2.400 MW (gồm 6 tổ máy, mỗi tổ máy 400MW) là bậc thang thứ 2 nằm trên sông Đà (sau Thủy điện Lai Châu và là bậc trên của Thủy điện Hòa Bình). Công trình chính thuộc địa phận xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Hồ chứa nước thuộc một số xã, huyện của tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Nhiệm vụ chính của Dự án là cung cấp điện lên hệ thống điện Quốc gia với sản lượng điện trung bình hàng năm là 10,246 tỷ kWh; chống lũ về mùa mưa, cung cấp nước về mùa khô cho đồng bằng Bắc Bộ và góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc.
 Dự án thành phần xây dựng công trình Thủy điện Sơn La do Tổ hợp nhà thầu là Tổng Công ty Sông Đà (tổng thầu), Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn, Tổng Công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng (LICOGI) và Tổng Công ty Lắp máy (LILAMA) thi công xây dựng và Lắp đặt thiết bị.
Phát biểu Lễ khánh thành công trình, ông Hoàng Quốc Vượng Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Điện lực Việt Nam khẳng định:Tiếp sức cho các đơn vị tham gia công trình Thủy điện Sơn La, Thủ tướng Chính phủ đã có những quyết sách, chỉ đạo sát sao như việc ban hành Cơ chế đặc biệt trong quản lý và thực hiện dự án tại Quyết định số 207/2004/QĐ-TTg ngày 11/12/2004; thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước tại Quyết định số 09/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 do Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (nay là Thủ tướng Chính phủ) làm Trưởng Ban để chỉ đạo, điều phối mọi hoạt động của các Bộ ngành, chính quyền địa phương, chủ đầu tư và các đơn vị thi công, kịp thời giải quyết mọi khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.
Việc hoàn thành công trình Thủy điện Sơn la sớm hơn 3 năm có ý nghĩa rất lớn. Với công suất 2.400MW, Thủy điện Sơn La chiếm gần 10% tổng công suất hệ thống điện hiện nay, góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu điện năng trong những năm sắp tới. Hồ chứa Thủy điện Sơn La được đưa vào sử dụng đã cải thiện việc cấp nước tưới cho đồng bằng Bắc bộ và điều tiết lũ cho hạ du ngay từ năm 2011, giảm tải việc xả lũ của hồ Thủy điện Hòa Bình. Lợi ích kinh tế thu được cũng rất lớn: mỗi năm vào vận hành sớm, nhà máy sẽ tạo ra doanh thu 500 triệu USD, tiết kiệm hơn 5 triệu tấn than để sản xuất ra lượng điện năng tương đương.
Thành công của công trình Thủy điện Sơn La đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của chủ đầu tư và các nhà thầu, đã trở thành niềm tự hào của đội ngũ xây dựng thủy điện Việt Nam với công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á mà tất cả các khâu Quản lý - Thiết kế - Thi công - Vận hành đều do người Việt Nam đảm nhiệm chính.Công trình Thủy điện Sơn La được khánh thành là kết quả của một quá trình phấn đấu gần 3000 ngày đêm không nghỉ của hàng chục ngàn CBCNV trên công trường cùng với sự trợ giúp, tạo điều kiện đặc biệt của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành liên quan, các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân các dân tộc ba tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu.
 Các thông số và khối lượng chính của công trình thủy điện: 
   + Diện tích lưu vực:       43.760 km2
   + Dung tích hồ chứa:     9,26 tỷ m3
   + Mực nước dâng bình thường:   215m
   + Mực nước gia cường:   217,83m
   + Mực nước chết:   175m
   + Sản lượng điện hàng năm: 10,246 tỷ kWh (trong đó tăng cho Thủy điện Hòa Bình là 1,267 tỷ kWh)
   + Kết cấu đập bê tông trọng lực cao 138,1m, chiều dài đỉnh đập 961,6m, công trình có 12 khoang xả sâu, 6 khoang xả mặt. Nhà máy thủy điện kiểu hở, bố trí sau đập.
   + Khối lượng đào đắp đất đá các loại 14,673 triệu m3
   + Khối lượng bê tông các loại 4,920 triệu m3, trong đó 2,238 triệu m3 bê tông đầm rung (CVC)  và 2,682 triệu m3 bê tông bê tông đầm lăn (RCC).
   + Khoan phun gia cố và khoan phun chống thấm 109.400 md
   + Khối lượng thiết bị 72.070 tấn các loại.
- Tiến độ: Theo Nghị quyết của Quốc hội, tổ máy 1 phát điện vào năm 2012, hoàn thành toàn bộ nhà máy vào năm 2015; được hiệu chỉnh phát điện tổ máy 1 vào cuối năm 2010, hoàn thành công trình vào 2012.
- Các mốc chính của dự án đã đạt được:
   + Khởi công và ngăn sông đợt 1: ngày 02/12/2005
   + Ngăn sông đợt 2: ngày 23/12/2008
   + Ngăn sông đợt 3 và tích nước: ngày 15/5/2010
   + Phát điện tổ máy 1: ngày 17/12/2010
   + Phát điện tổ máy 2: ngày 20/4/2011
   + Phát điện tổ máy 3: ngày 23/8/2011
   + Phát điện tổ máy 4: ngày 19/12/2011
   + Phát điện tổ máy 5: ngày 28/4/2012
   + Phát điện tổ máy 6: ngày 26/9/2012
Thu Nga


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét