Vị trí địa lý
Tỉnh Bạc Liêu nằm ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có toạ độ từ 9000’00’’ đến 9037’30’’ vĩ độ bắc và từ 105015’00” đến 105052’30”
kinh độ đông, cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km (về phía bắc). Phía bắc
giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang, phía đông và đông bắc giáp tỉnh Sóc
Trăng, phía tây và tây nam giáp tỉnh Cà Mau, phía đông và đông nam giáp
biển Đông.
Dân số
Dân số tỉnh Bạc Liêu là 856.250 người (01/4/2009), ba
dân tộc chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm khoảng 90% dân số) – dân tộc
Khmer (chiếm khoảng 7% dân số) và dân tộc Hoa (chiếm khoảng 3% dân số).
Đơn vị hành chính
Ngày
1-1-1997, Bạc Liêu được tái lập với 4 đơn vị hành chính gồm: 3 huyện
(Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai) và thị xã Bạc Liêu, trong đó thị xã Bạc
Liêu là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh. Đến cuối năm 2005, tỉnh Bạc Liêu có 6
huyện (chia tách từ 3 huyện cũ) là Phước Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Hoà
Bình, Giá Rai, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu.
Đất đai, địa hình
Đất đai: Bạc Liêu có diện tích đất tự nhiên 2.594 km2 .
Địa hình:
khá bằng phẳng, không có đồi, núi nên không có các chấn động địa chất
lớn. Địa hình cơ bản là đồng bằng với các cánh đồng rộng mênh mông, sông
rạch và kênh đào chằng chịt.
Khí hậu
Bạc
Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai
mùa rõ rệt: mùa khô (mùa nắng) bắt đầu từ tháng 10-11 năm trước đến
tháng 4 - 5 năm sau; mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 - 5 đến tháng 10 - 11.
Nhiệt độ trung bình năm 28,50C, nhiệt độ thấp nhất trong năm là 210C (vào mùa mưa), nhiệt độ cao nhất trong năm là 360C (vào mùa nắng).
Tài nguyên
- Tài nguyên rừng và động - thực vật:
rừng Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn như: tràm, chà là, giá,
cóc, lâm vồ,... Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loài dây leo.
Theo Viện sinh học nhiệt đới, rừng Bạc Liêu có 104 loài thực vật, 10
loài thú nhỏ, 8 loài bò sát,...
Sau
khi các kênh xáng được đào xong, đại bộ phận đất ngập úng ở Bạc Liêu
được ngăn mặn, xổ phèn. Kết quả, hơn 240 nghìn ha đất hoang hoá trở nên
màu mỡ. Bạc Liêu nhanh chóng trở thành tỉnh đứng đầu Nam Kỳ về diện tích
trồng lúa nước; đứng thứ hai (sau Kiên Giang) về nguồn lợi thuỷ sản.
|
Ngoài
ra, Bạc Liêu có 01 vườn chim hoang dã (diện tích hơn 30 ha) ở xã Hiệp
Thành, cách thị xã Bạc Liêu khoảng 3 km (về phía đông); hai vườn cò ở
thị trấn Phước Long và Vĩnh Phú Tây (huyện Phước Long); một vườn chim
với loài giang sen quý hiếm ở huyện Đông Hải. Đặc biệt, vườn chim Bạc
Liêu là
vườn
chim lớn nhất trong tỉnh với khoảng hơn 40 loài chim, số lượng hơn 60
nghìn con, gồm nhiều loại như: điên điển, quắm trắng, quắm đen, chằn bè,
cò lông bông, le le, vịt nước, còng cộc, vạc, cò ngà, cò trắng, giang
sen, mỏ thác, ốc cao, thằng chài, diệc Sunatra,... Vườn chim Bạc Liêu là
một trong những khu vực được đưa vào hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên
quốc gia của Việt Nam.
- Hệ thống sông ngòi: Bạc Liêu có hệ thống sông ngòi, kênh đào chằng chịt, cơ bản chia làm hai nhóm:
Nhóm 1:
chảy ra hải lưu phía nam, gồm: sông Gành Hào (dài 55 km) có các nhánh
là rạch Giồng Ké, rạch Lộ, rạch Nhà Thờ, rạch Cái Keo, rạch Gốc,...;
sông Mỹ Thanh (70 km) có các nhánh là rạch Lé, rạch Bạc Liêu, rạch Trò
Nho, rạch Trà Niêu, rạch Trà Teo, trong đó rạch Bạc Liêu dài 35 km.
Nhóm 2: chảy ra sông Ba Thắc (thường gọi là sông Hậu, tức Hậu Giang). Nhóm này gồm rạch Ba Xuyên và các nhánh nhỏ của rạch Ba Xuyên.
Về
kênh đào: để tháo phèn phục vụ sản xuất và phục vụ nhu cầu giao thông,
giai đoạn 1901 - 1903, chính quyền thực dân đã đào kênh Quản Lộ - Phụng
Hiệp dài 140 km, đoạn Bạc Liêu - Cà Mau dài 48, 5 km. Đến năm 1915,
chính quyền thực dân lại dùng xáng nạo vét mở rộng kênh đào Bạc Liêu -
Cà Mau (dài 66 km) và đào thêm kênh Bạc Liêu - Cổ Cò (dài 18 km). Sau
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), chính quyền thực dân tiếp
tục khai thác vùng đất Bạc Liêu với quy mô lớn hơn: năm 1920, đào kênh
xáng Hộ Phòng - Chủ Chí - Chợ Hội (dài 29 km) và kênh Giá Rai - Phó Sinh
- Cạnh Đền (dài 33 km); năm 1925, đào kênh xáng Lộ Bẻ - Gành Hào dài 18
km; năm 1931 đào kênh xáng Xóm Lung - Cống Cái Cùng (dài 13 km), kênh
xáng cầu số II - Phước Long (dài 24 km) và kênh xáng Cầu Sập - ngã tư
Vĩnh Phú - Ngan Dừa (dài 49,5 km).
- Biển:
Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km. Biển Bạc Liêu có nhiều loài tôm, cá, ốc,
sò huyết,... Hàng năm, sản lượng khai thác đạt gần 100 nghìn tấn cá,
tôm. Trong đó, sản lượng tôm gần 10 nghìn tấn.
Bờ
biển thấp và phẳng rất thích hợp để phát triển nghề làm muối, trồng
trọt hoặc nuôi tôm, cá. Hàng năm, sự bồi lấn biển ở Bạc Liêu ngày một
tăng. Đây là điều kiện lý tưởng cho Bạc Liêu phát triển thêm quỹ đất,
đồng thời là yếu tố quan trọng đưa kinh tế biển của Bạc Liêu phát triển.
Nguồn: Bạc Liêu thế và lực trong thế kỷ XXI
Lịch sử hình thành
|
Trải qua bao biến
cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu vẫn ngày càng trù phú do
phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự “chung sức, đồng lòng” dựng
xây quê hương của ba dân tộc Kinh, Khơme và Hoa.
|
Năm
1680, Mạc Cửu, một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm
chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú
Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức
Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu
tiên trên vùng đất Bạc Liêu.
Năm
1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa
Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, phong
Mạc Cửu là Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập
dinh trại đồn trú tại Phương Thành, nhân dân quy tụ ngày càng đông.
Năm
1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra
Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất
phương Nam thuộc về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang, Trấn Di được
bãi bỏ.
Năm
1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia
Định cai quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức
Vĩnh Long), Hà Tiên.
Năm
1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh: Biên
Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ
Hà Tiên đến Cà Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc
Trăng và Bạc Liêu tính đến cửa biển Gành Hào.
Ngày
5-1-1867, thực dân Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ. Đến ngày 5-6-1876, Pháp
chia Nam Kỳ thành 24 khu tham biện (inspection - có người dịch là khu
thanh tra) do các viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm.
Năm
1877, Pháp điều chỉnh Nam Kỳ còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18-12-1882,
Pháp cắt 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thuỷ của đại lý
(Dlégation) Cà Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia)
và hai tổng Thạnh Hoà, Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt
Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu).
Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ, lúc đầu có 2 đại lý: Vĩnh
Lợi và Vĩnh Châu.
Ngày
20-12-1899, toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi
thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1-1-1900, sắc lệnh trên được áp
dụng cho toàn Nam Kỳ.
Năm
1904, quận Vĩnh Lợi cắt một phần đất phía bắc nhập thêm vào quận Vĩnh
Châu. Diện tích của tỉnh Bạc Liêu lúc này là 740 nghìn ha.
Năm
1918, chính quyền thực dân Pháp cắt một phần đất phía nam quận Vĩnh Lợi
và một phần đất phía bắc quận Cà Mau thành lập quận Giá Rai.
Ngày
25-10-1955, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143/NV phân định lại địa phận
hành chính các tỉnh miền Nam, sáp nhập các quận Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh
Châu vào Sóc Trăng, thành lập tỉnh Ba Xuyên. Toàn bộ vùng đất quận Cà
Mau lập thành tỉnh An Xuyên.
Ngày
8-9-1964, Ngụy quyền Sài Gòn ký Sắc lệnh số 254/NV tái lập tỉnh Bạc
Liêu gồm các quận: Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Phước Long (Rạch
Giá). Địa phận này tồn tại cho đến ngày 30-4-1975.
Về
phía chính quyền cách mạng: việc phân chia địa giới hành chính tỉnh Bạc
Liêu trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ khác hẳn chính
quyền Sài Gòn. Năm 1947, quận Hồng Dân thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai
làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú về quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Năm
1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc
Trăng, đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển.
Ngày
13-11-1948, cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc
Liêu. Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc
Liêu. Làng Châu Thới hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới.
Năm
1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông,
Khánh Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Đồng thời, tỉnh
Bạc Liêu tiếp nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá.
Sau
Hiệp định Giơ-ne-vơ, năm 1955, huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc
Liêu, huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh
Lợi và thị xã Bạc Liêu được tái lập.
Năm
1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây chia các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh
Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh uỷ Sóc Trăng
quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh
Lợi - Vĩnh Châu.
Năm
1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc
Trăng quyết định tách huyện Vĩnh Châu khỏi huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu,
thành lập huyện Vĩnh Châu.
Tháng
11-1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn
vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu.
Vào
đầu năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam
hợp nhất hai tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau, đến
gần giữa năm 1976 tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải.
Ngày 1-1-1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập lần thứ hai và giữ nguyên cho đến ngày nay.
Xuất xứ tên gọi Bạc Liêu
Danh
xưng “Bạc Liêu”, đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo, có
nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi
biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là “Bạc” và Léo phát âm là “Liêu”.
Một
giả thuyết khác cho rằng: Pô là bót, đồn. Liêu là Lào (Ai Lao) theo
tiếng Khơme, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một
đồn binh của người Lào.
Còn
người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên gọi vùng
đất này là Phêcheri - chaume (đánh cá và cỏ tranh). Ngoài ra còn một số
giả thuyết khác.
Nguồn: Bạc Liêu Thế và Lực trong thế kỷ XXI
Vài nét về tính cách và văn hóa của người Bạc Liêu
|
Về mặt lịch sử, vùng
đất Bạc Liêu mới hình thành trên 200 năm. Do điều kiện đất đai và cấu
tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền Trung, miền Bắc.
Dân cư không hình thành từ “lũy tre làng”, “cha truyền con nối”. Dân cư
Bạc Liêu đa số là dân “xiêu tán”, nghèo khổ “tha phương cầu thực”. Họ
định cư rải rác trên các gò đất cao, trên các bờ sông, các kinh xáng.
Người Kinh, người Khơ-me, người Hoa đã đan xen nhau, luôn tương trợ,
đoàn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích “làm ăn lớn”. Phong cách
ứng xử người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phác,
bộc trực, dám phản kháng mạnh mẽ trước bất công xã hội.
|
Ở
Bạc Liêu, có 3 dòng văn hóa đan xen nhau đó là: văn hóa Kinh, văn hóa
Khơ-me, văn hóa người Hoa, trong quá trình hội nhập, phát trển.Hàng năm
trên vùng đất Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội. Người Kinh có lễ hội cúng
đình, thờ thần hoàng bổn cảnh có công với nước được triều đình nhà
Nguyễn Sắc phong. Ngoài ra còn có đại lễ Kỳ Yên còn gọi là lễ thượng
điền giữa tháng 5 âm lịch, lễ thắp miếu còn gọi là lễ hạ điền vào giữa
tháng 12 âm lịch.Đồng bào Khơ-me có lễ hội vào năm mới
(Chol-Chnam-Thmây) vào giữa tháng 4 dương lịch, lễ hội chào mặt trăng
(Oóc-Om-Boóc) vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, lễ hội Đôn-ta nhằm thực
hiện việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật.
Đồng bào Hoa có lễ cúng Thanh Minh vào tháng 3 âm lịch, lễ thí giàng vào tháng 7 âm lịch.
Trong
giao tiếp, lớp người trung niên giữa Kinh và Khơ-me hay kết thân nhau
làm “ní” (người cùng tuổi). Trai, gái Kinh và Hoa thường gọi nhau là
“hia”, “chế” thay cho từ anh, chị.Về văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu, có bản
vọng cổ của bác Sáu Lầu, chuyện vui bác Ba Phi, nói thơ điệu Bạc Liêu
của ông Thái Đắc Hàn, vè của ông Bửu Trượng.
Tính
cách người dân Bạc Liêu dưới thời Pháp thuộc in đậm tính cách lưu dân
người Việt “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ; đủ đạo đức làm dân
mà ít thuộc kinh truyện”. Trước đây một số ngươi giàu ở Bạc Liêu có quan
niệm “lấy táu đong lúa chứ không ai lấy táu đong chữ”. Điển hình là Ba
Huy con ông Hội đồng Trần Trinh Trạch, một thời tiêu xài “xả láng” để
đồng bào cả nước mỉa mai sự xa xỉ đó bằng tên gọi “công tử Bạc Liêu”.
Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, vùng đất Bạc Liêu trở thành căn cứ kháng chiến của Nam bộ.
Trường học mọc lên đều khắp. Bộ mặt văn hóa khác hẳn xưa. Tuy vậy Bạc
Liêu vẫn chưa có những công trình, những tác phẩm nghệ thuật tương xứng
với bề dầy lịch sử của nó.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu (Tập I)
Danh sách các di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Bạc Liêu
|
|
DI TÍCH CẤP QUỐC GIA
1.
Đồng Nọc Nạng, năm sự kiện 1928, địa điểm ấp 4 xã Phong Thạnh, huyện
Giá Rai. Bộ VHTT xếp hạng (nay là công nhận) là di tích Lịch sử năm
1991.
2.
Tháp Vĩnh Hưng, thời điểm xây dựng khoảng thế kỷ IV – XIII, địa điểm ấp
Trung Hưng, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi. Bộ VHTT xếp hạng là di tích
kiến trúc nghệ thuật năm 1992.
3.
Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xây dựng năm 1972, địa điểm ấp Bà Chăng,
xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. Bộ VHTT xếp hạng là di tích Lịch sử năm
1998.
4. Đình An Trạch, xây dựng năm 1877, địa điểm khóm 2, F5, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
5 Thành Hoàng Cổ Miếu (chùa Minh), xây dựng năm 1865, tại F3, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
6. Phước Đức Cổ Miếu (Chùa Bang), xây dựng năm 1780, tại F3, TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2000.
7.
Phước Đức Cổ Miếu (Miếu Ông Bổn), xây dựng năm 1871, tại Trà Kha B, F8,
TXBL. Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2005.
8.
Chùa Kro Pum Mean Chey Kos Thum (chùa Cỏ Thum), xây dựng năm 1832, địa
điểm ấp Cỏ Thum, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, Bộ VHTT xếp hạng là
di tích Lịch sử năm 2006
DI TÍCH CẤP TỈNH
1.
Đình Phong Thạnh, xây dựng đầu thế kỷ 19, tại ấp 4 thị trấn Giá Rai,
huyện Giá Rai. UBND tỉnh Minh Hải xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ
thuật năm 1996.
2.
Đền Thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xây dựng năm 1972, tại xã Long Điền,
huyện Đông Hải, UBND tỉnh Minh Hải xếp hạng là di tích lịch sử năm 1996.
3.
Tiên Sư Cổ Miếu, xây dựng năm 1855, tại phường 7, TXBL. UBND tỉnh Bạc
Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
4. Khu Mộ cố Nhạc Sĩ Cao Văn Lầu, xây dựng năm 1976, tại F2, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 1997.
5.
Thiên Hậu Cổ Miếu (chùa Bà Thiên Hậu), xây dựng năm 1901, tại F1,TXBL.
UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.
6.
Đền Thờ Trần Quang Diệu, xây dựng năm 1917, tại xã Phong Thạnh Tây A,
huyện Phước Long. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm
2000.
7. Chùa Long Phước (chùa Cô Bảy), xây dựng năm 1840, tại F5, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
8. Chùa Vĩnh Đức, xây dựng năm 1890, tại F1, TXBL. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
9.
Chùa Giác Hoa ( Chùa Cô Hai Ngó), xây dựng năm 1919, tại xã Châu Thới,
huyện Vĩnh Lợi. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001.
10.
Chùa Kom Phi Sakor Prêkchou (chùa Xiêm Cán), xây dựng năm 1887, tại xã
Vĩnh Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích
kiến trúc nghệ thuật năm 2001.
11.
Khu căn cứ Huyện ủy Vĩnh Lợi (1971 - 1975), xây dựng năm 1971, tại ấp
Trà Hất xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di
tích Lịch sử năm 2005.
12.
Khu căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu (1973 - 1975), xây dựng năm 1973, tại ấp
Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng
là di tích Lịch sử năm 2006.
13.
Thành Hoàng Cổ Miếu, xây dựng năm 1870, tại Thị trấn Hòa Bình, huyện
Hòa Bình. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2006.
14.
Đình Nguyễn Trung Trực (đình An Trạch), xây dựng năm 1885, tại ấp Thành
Thưởng, xã An Trạch, huyện Đông Hải. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di
tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
15.
Sự kiện lịch sử Ninh Thạnh Lợi năm 1927, tại ấp Chủ Trọt, xã Ninh Thạnh
Lợi, huyện Hồng Dân. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử -
Văn hóa năm 2006.
16.
Đồng Hồ Thái Dương (Đồng hồ Đá), xây dựng đầu TK 20, tại F3, TXBL. UBND
tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006.
17.
Đình Bình An, xây dựng cuối TK 19, tại ấp Láng Giài, TT Hòa Bình, huyện
Hòa Bình. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm
2008.
18.
Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tỉnh Bạc Liêu, tháng 2/1930, tại ấp
Rạch Rắn, xã Long Điền, huyện Đông Hải. UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là
di tích Lịch sử năm 2008.
19.
Miếu Bà Thiên Hậu, xây dựng trên 100 năm, tại xã Vĩnh Mỹ A, huyện Hòa
Binh, UBND tỉnh công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2008.
20.
Bia kỷ niệm trận đánh Cầu Trâu, năm sự kiện 1962, tại xã Châu Hưng A,
huyện Vĩnh Lợi, ghi nhớ chiến công của anh hung liệt sĩ Mai Thanh Thế.
UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2009./.
Nguồn: Sở VH-TT&DL tỉnh Bạc Liêu
|
Thêm 4.500 hộ dân nông thôn Bạc Liêu được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh
|
Ngày 10/1, tỉnh Bạc
Liêu tổ chức lễ khánh thành đưa trạm cấp nước sạch tại ấp Thị Trấn B
(thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình) vào hoạt động. Đây là một trong
những công trình cấp nước sạch có công nghệ đầu tư hiện đại và quy mô
lớn nhất được xây dựng ở vùng nông thôn tỉnh Bạc Liêu.
|
Sau
một năm khởi công xây dựng, trạm cấp nước Thị Trấn B, Hòa Bình được
đầu tư dây chuyền vận hành bằng công nghệ xử lý nước hiện đại, gồm hệ
thống các công trình: giếng khoan, nhà máy xử lý nước, trạm biến áp,
các tuyến ống, hệ thống nhà điều hành, nhà kho, nhà hóa chất, phòng thí
nghiệm… nhà máy có công suất xử lý 1.600m3 nước/ngày, đủ khả năng đáp
ứng nước sạch cho 4.500 hộ dân sử dụng. Tổng mức đầu tư 35,9 tỷ đồng,
nguồn kinh phí từ chương trình mục tiêu quốc gia.
Ông
Trần Thanh Tâm, Chủ tịch UBND huyện Hòa Bình phấn khởi cho biết: Việc
đưa trạm cấp nước vào hoạt động trong ở thời điểm này khiến bà con rất
vui mừng vì có được nguồn nước họp vệ sinh sử dụng, đáp ứng nhu cầu
người dân khi sắp đến Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013. Đặc biệt, là đối với
địa phương, địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, đời sống kinh tế
còn nghèo, chưa có điều kiện khoan giếng nước, còn sử dụng nguồn nước
không đảm bảo vệ sinh.
Đến
nay, toàn tỉnh Bạc Liêu có 96 trạm nước sạch tập trung cung cấp cho
hơn 30.000 hộ dân nông thôn, đạt gần 60% hộ dân sử dụng nước sạch đạt
tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Y tế. Ngoài ra, Bạc Liêu còn có hàng
trăm ngàn giếng nước khoan nhỏ lẻ, cung cấp nước sinh hoạt cho hàng
chục ngàn hộ dân.
Huỳnh Sử_Nguồn:BTN&MT
Cần trang bị cho cộng đồng kinh nghiệm bảo vệ nguồn nước
|
Ngày 1/1/2013 Luật Tài
nguyên nước (sửa đổi) chính thức có hiệu lực, cũng là lúc hạn hán đang
hoành hành ở nước ta và trên một phần ba cộng đồng dân cư không biết làm
gì để bảo vệ sông ngòi… |
Trung
tâm con người và thiên nhiên hơn một năm trước khảo sát lấy ý kiến của
1.300 hộ dân tại 9 xã ở 3 tỉnh thành tại các lưu vực sông Hồng, sông
Thái Bình, sông La, sông Vu Gia, sông Thu Bồn xung quanh tác động của
phát triển đối với sông ngòi, tài nguyên nước, ảnh hưởng tới sinh kế
nhai. Chỉ 30% những bức xúc của người dân về vấn đề suy thoái sông ngòi
được phản hồi. Trên 30% cộng đồng dân cư không biết làm gì để bảo vệ
sông ngòi. Mà rõ ràng sông cạn, nước ô nhiễm, những người dân cận kề và
phải phụ thuộc vào nước sông để sinh hoạt, tưới tiêu cây trồng là đối
tượng bị chi phối nhiều nhất, bức xúc nhất.
Tại
Hội thảo "Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và tổ chức lưu vực sông”
cuối năm 2012, nhấn mạnh một điểm mới của Luật Tài nguyên nước, ông Lê
Hữu Thuần, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên Nước, Bộ Tài
nguyên& Môi trường cho biết, đó là chủ các dự án khai thác, sử dụng
tài nguyên nước, và cả xả nước thải vào nguồn nước phải lấy ý kiến của
cộng đồng dân cư, tổ chức, thậm chí cá nhân liên quan. Việc đưa nội
dung này vào nhằm thực hiện chủ trương dân chủ hoá ở cơ sở, đề cao
trách nhiệm của chủ đầu tư dự án, minh bạch thông tin về những tác động
tiêu cực có thể gây ra ngay từ khi chuẩn bị thực hiện.
Các
chuyên gia quốc tế cũng từng khuyên Việt Nam nên trang bị cho cộng
đồng kinh nghiệm phản biện cũng như thúc đẩy cộng đồng tham gia bảo vệ
nguồn nước. Cứu các dòng sông phải đẩy thành phong trào. Phải tạo được
phong trào phục hồi các dòng sông bắt nguồn từ chính những người dân,
đến các cấp chính quyền cùng các tổ chức xã hội dân sự, mạnh mẽ hơn
nữa. "Thần nước” phải xuất hiện ở mọi nơi, phải cứu lấy các con sông,
nếu không khó nói chuyện bảo vệ nguồn nước.
Biến
đổi khí hậu khuấy động tài nguyên nước khiến Việt Nam sẽ có nhiều đợt
hạn hán, lũ lụt hơn. Hạn hán kéo dài hơn, tồi tệ hơn. Nhiều khu vực
nước ngọt cũng sẽ bị xâm nhập mặn, khả năng chống chọi với bão lũ giảm
đi… Các chuyên gia đã liên tục cảnh báo. Được trang bị Luật Tài nguyên
nước, cộng đồng dân cư không thể tiếp tục "không biết làm gì” để bảo vệ
sông ngòi, trong khi nước ta có 2.360 sông và 26 phân lưu, hơn 7.000km
đê sông và đê biển, rất nhiều các sông đều có đập dâng, hồ chứa thủy
lợi, thủy điện…
Nhà
nước và các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng dân cư hãy xiết chặt tay
nhau hơn, khẩn cấp bảo vệ nguồn nước khi chưa quá muộn.
|
Đổi mới tư duy trong suy nghĩ và hành động
|
“Trung tâm Quy hoạch &
Điều tra tài nguyên nước cần thay đổi cách nghĩ, cách làm và tự thân vận
động”, Thứ trưởng Nguyễn Thái Lai đã chỉ đạo như vậy tại Hội nghị tổng
kết thực hiện nhiệm vụ năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm
2013 của Trung tâm sáng 8/1. Cùng dự có đại điện các Vụ chức năng thuộc
Bộ. |
|
Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Thái Lai phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị |
Thứ trưởng
biểu dương cán bộ công nhân viên Trung tâm đã vượt lên khó khăn do
tình hình kinh tế cả nước khó khăn, nguồn nhân lực và tài chính hạn
chế, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn và các nhiệm vụ khác, ký
kết nhiều hợp đồng dịch vụ, tạo nhiều việc làm, ổn định và cải thiện
đời sống người lao động.
Để
thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ năm 2013, Trung tâm cần khắc phục một
số hạn chế như: Kéo dài một số dự án, không đáp ứng nhu cầu về thông
tin, số liệu, bị trượt giá, làm tăng giá công trình. Xây dựng đề cương
dự án chưa sát với thực tế nên thiếu tính khả thi. Cơ sở trang thiết bị
nghèo nàn, lạc hậu, nguồn nhân lực, nhất là công tác xây dựng quy hoạch
còn hạn chế.
Thứ
trưởng Nguyễn Thái Lai nhấn mạnh: Trung tâm cần năng động hơn trong
việc khai thông nguồn vốn, đa dạng hóa các nguồn công việc; đặc biệt là
phối hợp với các đơn vị trong Bộ để tìm thêm các dự án, tạo nhiều việc
làm cho cán bộ công nhân viên, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về kết
quả hoàn thành các dự án quan trọng nhằm nâng cao vị thế của Trung tâm
nói riêng và ngành tài nguyên nước nói chung.
Trước
đó, báo cáo thực hiện nhiệm vụ của Trung tâm cho thấy: Năm 2012, Trung
tâm được giao 18 đề án điều tra, 14 nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, 01
nhiệm vụ quy hoạch, 01 nhiệm vụ đối ứng dự án ODA… Đến nay, các dự án
này cơ bản hoàn thành tiến độ, đảm bảo chất lượng. Nổi bật nhất là đề án
Điều tra, đánh giá chi tiết tài nguyên nước dưới đất khu vực thị trấn
Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang, Đề án Đánh giá nguồn nước dưới đất vùng Đức
Hòa - Long An; Điều tra, đánh giá nước dưới đất các vùng đặc biệt thiếu
nước sinh hoạt các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận; Đánh giá nguồn nước
vùng Đức Phổ - Quảng Ngãi… Đối với nhiệm vụ khoa học, Trung tâm đã thực
hiện 05 đề tài cấp Bộ, 01 đề tài cấp cơ sở; mở mới 03 đề tài cấp Bộ,
05 đề tài cấp cơ sở. Đến này, các chủ nhiệm đề tài đã hoàn thành khối
lượng đúng tiến độ và chất lượng.
Năm
2013, Trung tâm tập trung thi công Dự án Bảo vệ nước dưới đất ở các đô
thị; Lập nhiệm vụ Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Sêrêpok; Quy
hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Bằng Giang - Kỳ Cùng; thực hiện 13
nhiệm vụ chuyển tiếp, 04 nhiệm vụ mở mới như: Lập bản đồ địa chất thủy
văn tỉ lệ 1:50.000 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận; đánh giá tài nguyên nước
vùng Thủ đô Hà Nội
Thủy điện Sơn La: Niềm tự hào của đội ngũ xây dựng thủy điện Việt Nam
|
Ngày 23/12/2012, tại Sơn La,
Tập đoàn Điện lực Việt Nam tổ chức Lễ khánh thành Công trình Thủy điện
Sơn La.Tham dự Lễ khánh thành có Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng,
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các Bộ ngành liên quan và đại diện chính quyền, nhân dân các tỉnh
Sơn La, Điện Biên, Lai Châu; Tập đoàn Điện lực Việt Nam (chủ đầu tư),
Ban QLDA NMTĐ Sơn La (đại diện chủ đầu tư), Tổng thầu, các nhà thầu
thành viên, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, các nhà thầu cung cấp
thiết bị v.v... |
|
ễ khánh thành Công trình Thủy điện Sơn La |
Dự
án Thủy điện Sơn La với công suất lắp đặt 2.400 MW (gồm 6 tổ máy, mỗi
tổ máy 400MW) là bậc thang thứ 2 nằm trên sông Đà (sau Thủy điện Lai
Châu và là bậc trên của Thủy điện Hòa Bình). Công trình chính thuộc địa
phận xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Hồ chứa nước thuộc một số
xã, huyện của tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Nhiệm vụ chính của Dự
án là cung cấp điện lên hệ thống điện Quốc gia với sản lượng điện
trung bình hàng năm là 10,246 tỷ kWh; chống lũ về mùa mưa, cung cấp
nước về mùa khô cho đồng bằng Bắc Bộ và góp phần phát triển kinh tế -
xã hội vùng Tây Bắc.
Dự
án thành phần xây dựng công trình Thủy điện Sơn La do Tổ hợp nhà thầu
là Tổng Công ty Sông Đà (tổng thầu), Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn,
Tổng Công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng (LICOGI) và Tổng Công ty
Lắp máy (LILAMA) thi công xây dựng và Lắp đặt thiết bị.
Phát
biểu Lễ khánh thành công trình, ông Hoàng Quốc Vượng Chủ tịch HĐTV Tập
đoàn Điện lực Việt Nam khẳng định:Tiếp sức cho các đơn vị tham gia
công trình Thủy điện Sơn La, Thủ tướng Chính phủ đã có những quyết
sách, chỉ đạo sát sao như việc ban hành Cơ chế đặc biệt trong quản lý
và thực hiện dự án tại Quyết định số 207/2004/QĐ-TTg ngày 11/12/2004;
thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước tại Quyết định số 09/2004/QĐ-TTg ngày
15/01/2004 do Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (nay
là Thủ tướng Chính phủ) làm Trưởng Ban để chỉ đạo, điều phối mọi hoạt
động của các Bộ ngành, chính quyền địa phương, chủ đầu tư và các đơn vị
thi công, kịp thời giải quyết mọi khó khăn vướng mắc trong quá trình
thực hiện dự án.
Việc
hoàn thành công trình Thủy điện Sơn la sớm hơn 3 năm có ý nghĩa rất
lớn. Với công suất 2.400MW, Thủy điện Sơn La chiếm gần 10% tổng công
suất hệ thống điện hiện nay, góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu
cầu điện năng trong những năm sắp tới. Hồ chứa Thủy điện Sơn La được đưa
vào sử dụng đã cải thiện việc cấp nước tưới cho đồng bằng Bắc bộ và
điều tiết lũ cho hạ du ngay từ năm 2011, giảm tải việc xả lũ của hồ Thủy
điện Hòa Bình. Lợi ích kinh tế thu được cũng rất lớn: mỗi năm vào vận
hành sớm, nhà máy sẽ tạo ra doanh thu 500 triệu USD, tiết kiệm hơn 5
triệu tấn than để sản xuất ra lượng điện năng tương đương.
Thành
công của công trình Thủy điện Sơn La đã đánh dấu sự trưởng thành vượt
bậc của chủ đầu tư và các nhà thầu, đã trở thành niềm tự hào của đội
ngũ xây dựng thủy điện Việt Nam với công trình thủy điện lớn nhất Đông
Nam Á mà tất cả các khâu Quản lý - Thiết kế - Thi công - Vận hành đều
do người Việt Nam đảm nhiệm chính.Công trình Thủy điện Sơn La được
khánh thành là kết quả của một quá trình phấn đấu gần 3000 ngày đêm
không nghỉ của hàng chục ngàn CBCNV trên công trường cùng với sự trợ
giúp, tạo điều kiện đặc biệt của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ,
các Bộ ngành liên quan, các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân các dân
tộc ba tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu.
Các thông số và khối lượng chính của công trình thủy điện:
+ Diện tích lưu vực: 43.760 km2
+ Dung tích hồ chứa: 9,26 tỷ m3
+ Mực nước dâng bình thường: 215m
+ Mực nước gia cường: 217,83m
+ Mực nước chết: 175m
+ Sản lượng điện hàng năm: 10,246 tỷ kWh (trong đó tăng cho Thủy điện Hòa Bình là 1,267 tỷ kWh)
+ Kết cấu đập bê tông trọng lực cao 138,1m, chiều dài đỉnh đập 961,6m,
công trình có 12 khoang xả sâu, 6 khoang xả mặt. Nhà máy thủy điện
kiểu hở, bố trí sau đập.
+ Khối lượng đào đắp đất đá các loại 14,673 triệu m3
+ Khối lượng bê tông các loại 4,920 triệu m3, trong đó 2,238 triệu m3 bê tông đầm rung (CVC) và 2,682 triệu m3 bê tông bê tông đầm lăn (RCC).
+ Khoan phun gia cố và khoan phun chống thấm 109.400 md
+ Khối lượng thiết bị 72.070 tấn các loại.
-
Tiến độ: Theo Nghị quyết của Quốc hội, tổ máy 1 phát điện vào năm
2012, hoàn thành toàn bộ nhà máy vào năm 2015; được hiệu chỉnh phát
điện tổ máy 1 vào cuối năm 2010, hoàn thành công trình vào 2012.
- Các mốc chính của dự án đã đạt được:
+ Khởi công và ngăn sông đợt 1: ngày 02/12/2005
+ Ngăn sông đợt 2: ngày 23/12/2008
+ Ngăn sông đợt 3 và tích nước: ngày 15/5/2010
+ Phát điện tổ máy 1: ngày 17/12/2010
+ Phát điện tổ máy 2: ngày 20/4/2011
+ Phát điện tổ máy 3: ngày 23/8/2011
+ Phát điện tổ máy 4: ngày 19/12/2011
+ Phát điện tổ máy 5: ngày 28/4/2012
+ Phát điện tổ máy 6: ngày 26/9/2012
Thu Nga
|
|
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét