LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
|
|
Người
Việt bắt đầu đến vùng đất An Giang từ lúc nào, đến nay chưa thấy sử
sách ghi chép rõ ràng. Tuy nhiên theo truyền thuyết dân gian và một số
vết tích còn lại, thì đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung vào
đây từ rất lâu.
Mặc
dù cuộc sống ban đầu gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng họ vẫn
kiên trì tìm đất sống. Họ ở rải rác dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu.
Khi
Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, đã thấy có người Việt ở vùng Bình Mỹ
(Châu Phú), vùng Châu Đốc và vùng cù lao Cây Sao (cù lao Ông Chưởng).
Tương truyền khi thuyền quân xuôi dòng Cửu Long (1700), Nguyễn Hữu Cảnh
ghé lại những nơi có người Việt ở để thăm hỏi và khích lệ mọi người giữ
tình thân thiện dù không cùng chủng tộc. Ông cũng cho phép một số binh
phu được ở lại theo ven sông vùng Châu Phú, Châu Đốc, Tân Châu, Chợ Mới
cày cấy làm ăn .
Lưu
dân ở vùng Cù lao Ông Chưởng được gọi là dân “hai huyện” (Phước Long và
Tân Bình). Họ được xem là mẫu mực về thuần phong mỹ tục, giữ vững được
nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt. Từ Chợ Mới đến Cái Hố theo lòng rạch
Ông Chưởng, ta gặp một số gia đình cố cư, ông bà của họ đến đây cư ngụ
từ đời Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn (6 đời).
Ở
Cù lao Giêng, có một địa danh xưa là bến đò Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của
họ Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 7, thứ 8,
cư ngụ kề nhau đông đúc.Người Việt đi vào phương Nam lập nghiệp với cả
gia đình cha mẹ, vợ con, và khi đã đến thì không thể về, vì quá xa.
Nhờ các chính sách của Chúa Nguyễn mà công cuộc khai hoang mở mang bờ cỏi phương Nam của dân Việt ngày càng nhanh chóng.
Khi
tỉnh An Giang mới thành lập, dọc theo hữu ngạn sông Tiền, dân cư khá
đông, tập trung ở cù lao Ông Chưởng. Một số thôn, xã được thành lập.
Riêng cù lao Giêng tuy không rộng lắm, nhưng sanh kế dễ dàng, nên qui tụ
được 4 thôn.
Phía
hữu ngạn sông Hậu, dân cư thưa thớt. Từ biên giới Việt – Miên xuống
Long Xuyên chỉ có các làng Bình Thạnh Tây (đối diện Bình Thạnh Đông bây
giờ), Bình Đức, Mỹ Phước.
Vùng An Giang gồm 2 khu vực mới và cũ riêng biệt :
- Phía Tân Châu, Ông Chưởng, Chợ Mới dễ canh tác, dân đông, làng cũ vì đã lập từ lâu .
- Phía hữu ngạn sông Hậu, là vùng rừng núi hoang vu, đất khó canh tác, dân thưa thớt, làng mới lập .
Việc
di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của Thoại Ngọc Hầu,
bắt đầu từ năm Đinh Sửu 1817. Lúc bấy giờ nhiều nhà cửa của nông dân đã
được dựng lên, các đình chùa cũng bắt đầu xây cất. Năm 1818, theo lệnh
triều đình, Nguyễn Văn Thoại đốc suất đào kinh Đông Xuyên ra đến Rạch
Giá, tạo điều kiện canh tác thuận lợi cho dân khẩn hoang 2 bên bờ kênh.
Đào
kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc đến
núi Sam, nhờ đó mà dân từ Châu Đốc vào núi Sam khẩn ruộng, lần hồi tiến
đến khai phá vùng Tịnh Biên .
Đầu
thế kỷ XIX đã nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc là
những vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nề nhất. Năm 1833, giặc Xiêm
tàn phá dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn qua Tân Châu. Nhưng
chỉ 5 năm sau dân cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác
từ núi Sam dọc theo 2 bờ kênh Vĩnh Tế về phía Hà Tiên .
Vùng
Châu Đốc là biên cương hiểm trở, vừa sản xuất vừa phải đối phó với
ngoại xâm. Mỗi người dân khẩn hoang là một lính thú biên cương.
Gia
tộc Lê Công gốc Thanh Hóa là một trong những nhóm di dân đến khai phá
vùng Châu Đốc (khoảng năm 1785 – 1837). Hiện con cháu đời thứ 7 còn cư
ngụ ở đây .Gia tộc thứ 2 cũng có công khai phá vùng Châu Đốc là dòng
Nguyễn Khắc, thuộc con cháu của Nguyễn Văn Thoại .
Dưới
đời vua Minh Mạng, tội phạm lưu đày phần lớn gom về vùng Vĩnh Tế để lập
các xóm dọc bờ kênh, dần dần hình thành vùng dân cư .
Nguyễn
Tri Phương, khi làm kinh lược sứ ở miền Nam, đã có sáng kiến lập đồn
điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên dân, tập trung ở vùng Châu Đốc, Hà
Tiên. Năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo đã thành lập được 21 cơ đồn
điền. Hai năm sau, tỉnh An Giang và Hà Tiên đã chiêu mộ được 1.646 dân
đinh, lập 159 thôn ấp .
Trong
thời gian này, người Chăm ở ngang chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong)
cũng gom lại từng đội, do 1 viên Hiệp quản đứng đầu. Từ bên Chân Lạp,
người Chăm rút về nương náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh loạn lạc
nội chiến bên Chân Lạp, rồi định cư luôn ở Tân Châu, An Phú . . . . .
Cùng
thời đó, người theo đạo Thiên Chúa lánh nạn kỳ thị tôn giáo của vua
quan nhà Nguyễn từ miền ngoài đến khá sớm ở cù lao Giêng (1778), Bò Ót
(1779) và Năng Gù (1845) đã làm tăng thêm dân số vùng đất An Giang.
Tư liệu trước đây nói về nguồn gốc các dân tộc thiểu số ở An Giang như :
-
Người Khmer: Là dân bản địa kì cựu, hầu hết đều sinh ở Việt Nam nên gọi
là người Việt gốc Khmer, tập trung nhiều nhất ở các quận Tri Tôn và
Tịnh Biên. Phong tục và tiếng nói của họ cũng không khác người Khmer ở
chánh quốc. Họ sùng bái đạo Phật, tôn kính các sư sãi và sẵn sàng dâng
cúng cho chùa những huê lợi do họ làm ra để cầu phúc.- Người Chăm và
người Mã Lai đến ở vùng Châu Đốc từ năm 1840. Trước kia họ sống ở Cao
Miên.
-
Người Hoa: Theo dụ số 48 ngày 21/8/1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm
sửa đổi bộ luật quốc tịch Việt Nam, thì những người Hoa sinh đẻ tại Việt
Nam kể như dân Việt Nam.Đến An Giang còn có những người theo đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Lực lượng này gồm dân các tỉnh chung
quanh (Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long…) theo về với đạo, phần lớn tập
trung khai phá vùng Thất Sơn, rừng núi hoang vu.
- Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do cụ Đoàn Minh Huyên sáng lập, chia nhiều đoàn tín đồ đến khai khẩn nhiều nơi:
●
Đoàn 1 vào Thất Sơn , bên chân núi Két, do cụ Bùi Văn Thân, tức tăng
chủ Bùi Thiền sư và cụ Bùi Văn Tây, tức Đình Tây hướng dẫn, lập nên các
trại ruộng Hưng Sơn và Xuân Sơn, sau này hợp thành xã Thới Sơn (Tịnh
Biên).
● Đoàn 2 do cụ Quản cơ Trần Văn Thành chỉ huy, đến Láng Linh, vùng đầm lầy khai hoang, lập đồn, tụ nghĩa binh chống Pháp.
● Đoàn 3 do cụ Nguyễn Văn Xuyến (tức đạo Xuyến) đưa tín đồ về Cái Dầu-Bình Long (Châu Phú).
-
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa do cụ Ngô Lợi khởi xướng, cũng đã đưa hàng trăm
tín đồ từ khắp nơi về vùng núi Tượng, núi Dài khai hoang, lập làng ,
giáo huấn tứ ân.Theo Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán
triều Nguyễn, năm 1847 tỉnh An Giang, số đinh theo báo cáo của Bộ Hộ có
22.998 người (cả nước Việt Nam khi đó số đinh chỉ có 1.024.388 người).
Đến
năm 1930, chấm dứt các chính sách di dân khẩn hoang vào miền Nam. Qua
số liệu niên giám thống kê của Pháp năm 1921, dân số 2 tỉnh Long Xuyên
và Châu Đốc cộng lại đông đứng thứ nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Tài nguyên khoáng sản
(23/12/2008)
Tỉnh An Giang phong phú về khoáng sản.
- Đá xây dựng: có
nhiều chủng loại, bao gồm các loại đá trầm tích và magma, phân bố tại
các khu vực núi Tà Pạ, Nam Qui, Phú Cường, Cô Tô, Trà Sư… Phạm vi sử
dụng cũng đa dạng như : đá trải đường, đá xây, đổ bêtông.
+ Loại đá granit ở An Giang có 2 nhóm:
Nhóm sáng màu mịn hạt:
phân bố ở núi Trà Sư, núi Két, núi Bà Đội (Tịnh Biên), núi Sập, núi Ba
Thê nhỏ, núi Tượng, núi Chóc, núi Trọi (Thoại Sơn).Khai thác đá Granit.
Nhóm sậm màu hạt thô: phân bố ở núi Cô Tô, núi Ba Thê. Trữ lượng dự báo ước tính khoảng 11 triệu m3.
+ Loại đá phun trào
Ở khu vực phía Nam của núi Dài, núi Phú Cường, núi Sà Lôn và phía Nam
núi Cấm. Đá có màu xanh đen, cường độ chịu lực không cao
(700-1000kg/cm2) nhưng lại khó vỡ và sử dụng tốt cho các công trình dân
dụng.
Khai thác đá Granit
|
- Cát xây dựng, có 2 nhóm:
+Cát núi:
nằm theo triền hoặc trong các trũng giữa núi Cấm và núi Dài thuộc các
xã An Cư, Thới Sơn, là sản phẩm trầm tích do dòng nước mang cát từ trên
triền cao của các thềm cổ tích tụ mà thành. Thường có màu trắng tương
đối thô hạt và độ chọn lựa yếu.Khai thác cát trên sông Hậu.
+ Cát sông:
Cát vàng phục vụ cho xây dựng ở Tân Châu (sông Tiền) đã nổi tiếng.
Những bãi cát sông có khả năng khai thác xuất hiện trên sông Tiền và
sông Hậu với tổng lượng khai thác hàng năm gần 2 triệu khối. Trên sông
Tiền có 4 khu vực và sông Hậu có 8 khu vực
Khai thác cát trên sông Hậu
|
- Đất sét gạch ngói:
Các vùng đất nông nghiệp ở Châu Thành , Châu Phú đều thích hợp cho sản
xuất gạch ngói. Đất có nguồn gốc từ phù sa sông hiện tại. Chỉ cần khai
thác ở lớp đất bề mặt dày 0,2 - 0,3m là có thể đủ để cung cấp cho hơn
400 nhà máy sản xuất gạch ngói lớn nhỏ trong toàn tỉnh. Sau đó, chỉ
trong vòng 2 - 3 mùa ngập lũ phù sa lại lấp đầy như cũ. Sét gạch gốm ở
An Giang dùng làm gạch ống, gạch thẻ, ngói lợp, gạch tàu.
Phơi gạch
|
Nhóm vật liệu trang trí :
Sản xuất đá ốp lát xuất Khẩu
|
- Đá ốp lát :
Ở
An Giang chủ yếu là các nhóm đá granite, granodiorite, rhyolite có
nhiều màu sắc rất được ưa chuộng trong trang trí cao cấp. Cụ thể có các
loại đá ốp lát như: granite hồng xen đốm đen, hoa văn nhỏ, granodiorite
con tằm có màu xám xanh, hoa văn dạng đốm lớn hình da báo, granite hồng ở
khu mỏ Ô Mai… Ngoài ra, còn có đá phiến đen ở núi Phú Cường, núi Nam
Qui. Những mỏ đá có thể khai thác làm đá ốp lát:
+ Mỏ đá núi Cấm, chủ yếu nằm trên sườn Đông Nam núi Cấm, xen giữa dãy núi Cấm và núi Nam Qui.
+
Mỏ đá Gập Ghềnh: ở phía Bắc núi Dài nhỏ và là 1 phần rất nhỏ khối
granite thuộc pha 2 phức hệ Đèo Cả tuổi kareta thuộc xã An Phú (Tịnh
Biên).
- Đá aplite:
Đá
aplite ở An Giang đã được khai thác cung cấp cho các nhà máy sản xuất
gạch ceramic Đồng Tâm, An Giang và Thành phố HCM. Bên cạnh aplite, những
mạch pecmatic chứa tràn kali và natri rất quí cho công nghiệp gốm sứ,
sành sứ được tìm thấy ở núi Sập và khu vực Bảy Núi.
-
Than bùn: Các mỏ than bùn ở An Giang được phân bố chủ yếu ở khu vực Bảy
Núi thuộc 2 huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Trữ lượng dự báo của các mỏ than
bùn của tỉnh khoảng 7.632.430 tấn (cấp A + B + C1) và tổng tiềm năng là
16.886.730 tấn. Hầu hết các mỏ đều có chất lượng than bùn tốt, đáp ứng
được yêu cầu sản xuất phân hữu cơ vi sinh và acid humic.Có 2 loại than
bùn khác biệt nhau: Than bùn dạng vỉa ở các mỏ Núi Tô, Tà Đảnh, Ba Chúc,
và than bùn dạng dải theo các lòng sông cổ ở An Tức , Vĩnh Gia.
-
Vỏ sò: Mỏ vỏ sò ở An Giang được hình thành trong vùng cửa sông, nằm
trong cảnh quan chung miền Tây - Tây Nam sông Hậu và những khối vỏ sò
nằm rải rác, kéo dài theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Khối lượng mỗi mảnh
sò có thể là 0,2 - 0,5kg. Càng xuống sâu vỏ sò càng lớn. Chúng phân bố
thành những khối với bề mặt đáy bằng phẳng, vách dốc. Chiều dày trung
bình lớp phủ của các khối thay đổi từ 0,69 đến 1,55m , chiều dày trung
bình của khối vỏ sò từ 6,83 đến 7,55m. Các di tích vỏ sò này được hình
thành trong điều kiện cửa sông vào Holocene giữa muộn.Thành phần hóa học
vỏ sò chủ yếu là oxyt canxi (CaO) chiếm 54,20 - 54,91% . Ngoài ra trong
vỏ sò còn chứa 1 ít hàm lượng oxytmahe (MgO) và oxit silic (SiO2) ,
được sử dụng vào công nghệ sản xuất xi-măng trắng và làm phối liệu trong
phân NPK.
- Đất sét:
+ Đất sét cao-lanh An Giang chủ yếu tập trung ở vùng Bảy Núi do quá
trình phong hóa của các đá mang khoáng này ở núi Cấm, núi Dài, núi Cô
Tô, núi Nam Qui, núi Tà Pạ… Đây là nguồn vật liệu làm sứ cách điện cao
cấp.Cao-lanh ở đây có 2 nguồn gốc tạo thành:
1.
Nguồn gốc phong hoá tại chỗ của các đá cát kết, bột kết giàu fenspath
thuộc trầm tích Créta hệ tầng Phú Quốc và của granit sáng màu, giàu
fenspath.
2.
Nguồn gốc trầm tích: của các đá giàu fenspath bị phá hủy do các điều
kiện lý hóa, rửa trôi và trầm tích trong các trũng giữa núi.Đất sét
cao-lanh không chỉ dùng trong sản xuất sành sứ, mà còn nhiều công dụng
như: làm khung xương gạch men cao cấp, tinh chế làm chất mang trong dược
liệu, làm thủy tinh đục, bột sơn , chất mang của thuốc trừ sâu.
+
Đất sét bentonite: một loại đất chứa nhiều khoáng montmorillonite .
Nguyên liệu rất thông dụng trong công nghiệp, đặc biệt dùng làm chất tẩy
rửa và hút nhờn, nên chúng được sử dụng làm chất tẩy rửa dầu nhớt và
làm dung dịch trong các giếng khoan dầu nhớt. Bentonite ở An Giang được
tìm thấy tại xã Lê Trì huyện Tri Tôn, với trữ lượng khá lớn.
1.
Đá quí và ngọc:Ở núi Nam Qui và núi Tà Pạ, thỉnh thoảng người dân địa
phương nhặt được những viên đá quí lộ ra ở những đoạn đường trải đá núi,
đó là các loại mã não, các cây hóa thạch.Một số vùng rìa tiếp xúc giữa
đá granit với đá xung quanh phát sinh 1 số loại đá quí khác như hồng
ngọc . Một số loại thạch anh ám khói, thạch anh tím được tìm thấy trong
các mạch pecmatic ở Ba Thê, núi Két…
Quặng kim loại:
- Quặng molipden: Đã được người Nhật khai thác từ hơn 40 năm trước mà
miệng hầm mỏ vẫn còn ở núi Sam. Mạch quặng molipdenit có màu xám đen đi
kèm với đá pecmatic. Ngoài ra, molipden còn được phát hiện trong 1 số
mạch đá ở núi Trà Sư, núi Két nhưng không nhiều.
-
Quặng mangan: Là lớp bột màu tím đỏ hoặc tím đen (MnO2), phân bố ở Tà
Lọt . Loại khoáng này đã được khai thác từ năm 1936. Quặng mangan thường
đi kèm với sắt ở trong đá trầm tích bị biến chất.
Nước khoáng thiên nhiên:
Ở An Giang, đặc biệt là ở vùng Bảy Núi, các khu mội nước khoáng thường tìm thấy dọc theo các đới đứt gãy tân kiến tạo.
-
Dọc theo trục đứt gãy phân cắt núi Phú Cường và núi Dài, núi Cấm và núi
Dài hình thành nơi thung lũng Ô Tà Sóc (Tri Tôn) có 6 điểm lộ nước
khoáng : núi Cậu, An Cư-nằm về phía Bắc núi Phú Cường, Soài Chết, Suối
Vàng, Sà Lôn và Tà Pạ. Tại các điểm này, nước có tổng độ khoáng hóa từ
500mg/l đến 2.750mg/l.
-
Hệ thống thứ hai nằm dọc theo trục đứt gãy chia cắt núi Két và núi Dài
(dọc theo trục tỉnh lộ Nhà Bàn-Tri Tôn) gồm các điểm lộ:
+ Điểm lộ Nhà Bàn, xuất hiện phía dưới Bắc núi Két.l Điểm lộ Vĩnh Trung, xuất hiện nhiều giếng đào chứa nước khoáng .
+ Điểm lộ Chi Lăng, nước khoáng xuất hiện trong nhiều giếng cạn ở trung tâm thị trấn Chi Lăng.
+ Khu mội Tri Tôn, xuất hiện phía Bắc thị trấn Tri Tôn.
+ Khu mội Cô Tô, không tìm thấy điểm lộ thiên nhưng qua các giếng khoan đã tìm ra nước khoáng ở độ sâu 123m.
Diatomite:
Ở
An Giang, diatomite được phát hiện ở Lê Trì (Tri Tôn) nằm cách mặt đất
từ 1,8-2,2m. Bề dày bình quân khoảng 1,7-2m, trữ lượng dự báo khoảng từ
800.000 đến 1.000.000 tấn. Các loại diatomite có ở đây đều lẫn sắt hoặc
chất hữu cơ rất cao, nên thường có màu xám đen hoặc vàng. Do vậy, màu
trắng và tính ròng của diatomite An Giang là vô cùng đặc sắc ; có thể sử
dụng rộng rãi trong công nghiệp lọc hoạt tính, đặc biệt là lọc bia,
rượu, dầu ăn.
Điều kiện tự nhiên
(23/12/2008)
Vĩ
độ địa lý của An Giang nằm trong khoảng 10 - 11° vĩ bắc, tức là nằmgần
với xích đạo, nên các quá trình diễn biến của nhiệt độ cũng như lượng
mưa đều giống với khí hậu xích đạo.
Điều kiện hoàn lưu khí quyển :
An
Giang chịu ảnh hưởng của 2 mùa gió là : gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông
Bắc. Gió Tây Nam mát và ẩm nên gây ra mùa mưa. Gió mùa Đông Bắc thổi
vào An Giang xuất phát từ biển nhiệt đới phía Trung Quốc, nên có nhiệt
độ cao hơn vùng băng tuyết Si-bê-ri và có độ ẩm lớn hơn, không tạo ra
rét, mà chỉ hanh khô, có phần nắng nóng.
Các yếu tố khí tượng :
a. Mây :
Lượng
mây ở An Giang tương đối ít. Trong mùa khô, có khi trời có mây nhưng
vẫn nắng. Trong mùa mưa, lượng mây thường nhiều hơn. Lượng mây trung
bình tháng của các tháng mùa khô là 3,1/10 và của các tháng mùa mưa là
6,9/10.N
b. Nắng :
An
Giang có mùa nắng chói chang, trở thành địa phương có số giờ nắng trong
năm lớn kỷ lục của cả nước. Bình quân mùa khô có tới 10 giờ nắng/ngày ;
mùa mưa tuy ít hơn nhưng cũng còn tới gần 7 giờ nắng/ngày. Tổng tích ôn
cả năm lên trên 2.400 giờ.
c. Nhiệt độ :
Nhiệt
độ trung bình ở An Giang không những cao mà còn rất ổn định. Chênh lệch
nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ hơn kém nhau khoảng 1,5° đến
3° ; còn trong các tháng mùa mưa chỉ vào khoảng trên dưới 1° . Nhiệt độ
cao nhất năm thường xuất hiện vào tháng 4, dao động trong khoảng 36°-
38° ; nhiệt độ thấp nhất năm thường xuất hiện vào tháng 10 dưới 18° (năm
1976 và 1998).
d. Gió :
An
Giang, mùa khô gió thịnh hành là Đông Bắc, còn mùa mưa là gió Tây Nam –
gió Tây Nam là gió có tần suất xuất hiện lớn nhất.Tốc độ gió ở đây
tương đối mạnh, trung bình đạt tới trên 3m/giây. Trong năm, tốc độ gió
mùa hè lớn hơn mùa Đông. An Giang là tỉnh nằm sâu trong đất liền Nam Bộ
nên ít chịu ảnh hưởng gió bão.
e. Mưa :
Ở
An Giang, mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 11.
Tổng lượng mưa mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa năm. Lượng mưa mùa mưa
lớn lại trùng vào mùa nước lũ của sông Mê Kông dồn về hạ lưu nên đã gây
ra tình trạng úng tổ hợp với ngập lụt, chi phối đến nhiều hoạt động sản
xuất và đời sống.
f. Bốc hơi :
Trong
mùa khô do nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp nên lượng bốc hơi lớn, bình
quân 110mm/tháng (vào tháng 3 có tới 160mm) . Trong mùa mưa , lượng bốc
hơi thấp hơn, bình quân 85mm/tháng , nhỏ nhất khoảng 52mm/tháng xuất
hiện vào tháng 9 hoặc tháng 10, là thời kỳ có mưa nhiều, độ ẩm cao.
g. Độ ẩm :
Ở
An Giang, mùa có độ ẩm thấp (nhỏ hơn 80%) thường bắt đầu từ tháng 12 và
kéo dài đến tháng 4 năm sau. Nghĩa là mùa có độ ẩm thấp trùng với mùa
khô. Mùa khô độ ẩm ở thời kì đầu là 82% , giữa 78%, và cuối còn 72%.Mùa
mưa ở đây thật sự là một mùa ẩm ướt . Độ ẩm trung bình trong những tháng
mùa mưa đều 84%, cá biệt có tháng đạt xấp xỉ 90%.
Ngoài
các yếu tố khí tượng nói trên, An Giang còn có các hiện tượng thời tiết
cần lưu ý như : lốc xoáy-vòi rồng-mưa đá, hạn Bà Chằn, ảnh hưởng của
Elnino và Lanina.
Đặc điểm nhóm đất
(23/12/2008)
An
Giang là một tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, là một trong những tỉnh có
diện tích đất canh tác lớn nhất trong vùng ĐBSCL. Tổng diện tích đất
nông nghiệp là 246.821 ha , trong đó đất trồng lúa chiếm hơn 82%. Đất An
Giang hình thành qua quá trình tranh chấp giữa biển và sông ngòi,nên
rất đa dạng. Mỗi một vùng trầm tích trong môi trường khác nhau sẽ tạo
nên một nhóm đất khác nhau, với những thay đổi về chất đất, địa hình, hệ
sinh thái và tập quán canh tác.
Nhóm đất phèn
Đất
phèn là đất chứa nhiều gốc sunphat (SO42-) và có độ pH rất thấp, chỉ
khoảng 2-3.Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với tỉnh
Kiên Giang, thuộc địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu
Phú, với tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67%.
Nhóm đất này được hình thành do quá trình biển tiến cách đây 6.000 năm
để lại, đặc biệt trong môi trường vũng vịnh biển nông, trên đó rừng ngập
mặn phát triển mạnh mẽ như đước, sú, mắm…Các loại thực vật này thường
tích lũy chất lưu huỳnh trong thân và rễ dưới dạng các hợp chất hữu cơ.
Khi những khu rừng này bị vùi lấp, xác của chúng được các vi sinh vật
yếm khí phân hủy và thải lưu huỳnh ra môi trường dưới dạng sunfit. Chúng
kết hợp với các ion kim loại sắt, nhôm vừa được dòng nước mang đến từ
lục địa tạo thành những lớp đất chứa nhiều pyrite.Pyrite chứa trong tầng
trầm tích đầm lầy còn gọi là tầng phèn tiềm tàng, nhưng chúng lại dễ bị
oxy hóa trong điều kiện tiếp xúc với không khí.Dựa trên nguồn gốc hình
thành và mức độ nhiễm phèn trong đất, có thể chia đất phèn ở An Giang
thành các loại tầng đất sinh phèn (phèn tiềm tàng), tầng đất than bùn
chứa phèn, đất nhiều phèn và đất bị nhiễm phèn.
Nhóm đất phèn tiềm tàng:
Ở
An Giang xuất hiện chủ yếu ở địa bàn các xã Vọng Thê, Vọng Đông (Thoại
Sơn), Ô Long Vĩ, Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), Tân Tuyến, Tà Đảnh (Tri Tôn),
Tân Lợi (Tịnh Biên)… Tuy nhiên, tùy thuộc vào địa hình, bề dày tầng phủ
bên trên và mức độ sinh phèn khác nhau, ở một xã như Vĩnh Phú, Thoại
Giang, Tây Phú, Vọng Thê tầng sinh phèn xuất hiện ở độ sâu 80-100cm cách
mặt đất, càng đi về hướng Tây Nam bề dày tầng phủ càng giảm, tầng phèn
xuất hiện gần mặt đất hơn.Hầu hết đất phèn tiềm tàng có thành phần chủ
yếu là sét (40,83%), bột 45,13%, cát mịn 4,15%
.
Đất phèn nhiều:
Đây
là loại đất chưa phát triển có phèn hoạt động rất mạnh, bên dưới là
tầng sinh phèn. Loại này phân bố ở các thung lũng hẹp phía Tây và Đông
của vùng Bảy Núi. Chúng hình thành một vành đai gần như khép kín vùng
đồi núi , bắt đầu từ kênh Vĩnh Tế qua An Nông, vòng qua thung lũng giữa
Lạc Quới và núi Phú Cường đến kênh Mới, chạy dọc theo kênh Tám Ngàn nối
thông qua Tri Tôn.Thành phần hạt độ chủ yếu là sét chiếm 41,31%, bột
36,68%, cát 4,75%.
Đất phèn ít:
Bao
gồm đất phù sa phát triển bị nhiễm phèn và đất nhiễm phèn nặng được
thuần thục và rửa trôi. Loại này thường phân bố ở những nơi có địa hình
tương đối cao, có sự bồi đắp khá nhiều của phù sa nên tầng phèn tiềm
tàng bên dưới được che phủ khá dày (80-100cm), khả năng bị nhiễm phèn
nhẹ. Bên cạnh đó, những vùng trước đây bị nhiễm phèn nhưng do có địa
hình cao, khả năng rửa trôi tốt nên dần dần đất trở nên ít nhiễm
phèn.Thành phần hạt độ hàm lượng sét trong loại đất này rất cao
(60-63,9%), bột và cát ít , chứng tỏ đất có độ thoát , thấm nước kém và
dẻo chặt, phân bố dọc dưới chân núi Cô Tô, vùng ranh giới của huyện
Thoại Sơn và Châu Thành.
Đất than bùn chứa phèn:
Loại
đất này được đặc trưng bởi lớp than bùn dày, xốp bên dưới thường phân
bố dọc theo các thung lũng sông cổ và lung đìa. Trong đất than bùn độ
khoáng tương đối thấp và nghèo nàn nhưng bù lại hàm lượng đạm rất cao;
được phân bố dọc theo thung lũng sông cổ ở Tri Tôn, ven theo các cánh
rừng tràm Trà Sư, một số ở các xã Lương An Trà , Tà Đảnh.
Nhóm đất phù sa
Đất
phù sa ở An Giang có nguồn gốc và môi trường trầm tích đa dạng, do
nhiều yếu tố tác động đến môi trường trầm tích, qui mô trầm tích, chế độ
trầm tích cũng như vật liệu trầm tích đã tạo nên những loại đất khác
nhau. Đặc tính chung của đất phù sa ở đây là chứa nhiều hữu cơ , pH
thấp, ít bị bào mòn, xâm thực mà chủ yếu luôn được bồi đắp hàng năm với
mức độ khác nhau trong những điều kiện trầm tích khác nhau. Diện tích
khoảng 1.354 ha.Có 2 đơn vị trầm tích là đồng lụt hở và đồng lụt trung
tâm.Đồng lụt hở với đặc trưng là địa hình thấp dần khi càng xa sông và
nước lũ chi phối mạnh mẽ.
Trên đồng lũ
Đồng
lụt trung tâm giữa sông Tiền và sông Hậu được xác định bởi đặc trưng là
chiều dày lớn nhờ lún đáy liên tục và lượng phù sa bồi đắp nhiều.Ở An
Giang, nhóm đất phù sa chiếm 44,27% tổng diện tích đất toàn tỉnh với
khoảng 156.507 ha, chủ yếu phân bố ở các huyện Châu Thành, Châu Phú, Phú
Tân, An Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Chợ Mới và một phần của thành phố
Long Xuyên, thị xã Châu Đốc . Nhóm đất này bao gồm các nhóm:
Đất cồn bãi:
Phân
bố chủ yếu ven sông Tiền , sông Hậu và một phần nhỏ trên sông Vàm Nao,
gồm doi sông, cồn sông . Đất do phù sa sông Tiền, sông Hậu bồi đắp , hàm
lượng dinh dưỡng cao, không chứa ion gây độc cho cây trồng .Hiện trên
địa bàn An Giang có 22 cồn sông. Những bãi bồi đang trong giai đoạn hình
thành và phát triển, dân địa phương gọi là cồn như cồn Béo, cồn Tiên ở
Vĩnh Hòa, cồn Én ở Tấn Mỹ , cồn Khánh Bình của xã Khánh Hòa… Những cù
lao được hình thành lâu đời , có diện tích lớn như cù lao Ông Hổ , cù
lao Phó Ba, cù lao Bắc Nam, cù lao Ka Tam Bong, cù lao Bình Thủy.Theo
thống kê toàn tỉnh có các cồn và cù lao như sau:
- Trên sông Tiền:
+ Cồn Tào ở xã Vĩnh Hòa, huyện Tân Châu.
+ Cồn Cỏ Găng ở xã Vĩnh Hòa, huyện Tân Châu.
+ Cồn Béo ở xã Vĩnh Hòa , huyện Tân Châu.
+ Cồn Cả ở xã Phú An, huyện Phú Tân.
+ Cù lao Giêng bao gồm 3 xã Tấn Mỹ, Mỹ Hiệp, Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới.
+ Cồn Én ở phía Bắc cù lao Giêng thuộc xã Tấn Mỹ (Chợ Mới).
+ Cồn Phước ở Mỹ Luông , huyện Chợ Mới.- Trên sông Hậu:
+ Cù lao Vĩnh Lộc ở xã Vĩnh Lộc, huyện Tân Châu.
+ Cù lao Bắc Nam ở xã Phú Hữu và xã Quốc Thái, huyện An Phú.
+ Cù lao Ba ở xã Vĩnh Trường, huyện An Phú.
+ Cù lao Cỏ Túc ở xã Vĩnh Trường (An Phú).
+ Cù lao Hà Bao nằm phía Nam của cù lao Vĩnh Trường (An Phú).
+ Cù lao Ka Tam Bong (còn gọi là cù lao Khánh Hòa).
+ Cồn Khánh Bình nằm về hướng Bắc của cù lao Ka Tam Bong ở xã Khánh An .
+ Cù lao Bình Thủy nằm giữa rạch Năng gù và sông Hậu ở xã Bình Thủy, huyện Châu Phú .
+ Cù lao Thị Hòa (còn gọi cồn Bà Hòa) ở xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành .
+ Cù lao Ông Hổ (còn gọi cù lao Mỹ Hòa Hưng) ở thành phố Long Xuyên .
+ Cồn Phó Ba ở ấp Mỹ Thạnh, xã Mỹ Hòa Hưng .
+Cồn Phó Quế ở phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên .
+ Cồn Tiên nằm về hướng Đông Bắc cù lao Mỹ Hòa Hưng, xã Mỹ Hòa Hưng .
+ Cồn An Thạnh ở xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới .
- Trên sông Vàm Nao :
+ Cồn Tân Hòa ở xã Tân Hòa, huyện Phú Tân .- Địa bàn An Giang có khoảng 13 doi sông :
+ Trên sông Tiền có doi sông Vĩnh Xương, doi Vĩnh Hòa, doi Long Sơn, doi Chợ Vàm, doi Kiến An.
+ Trên sông Hậu có doi sông Phước Hưng, doi Phú Hữu, doi Khánh An, doi Đa Phước, doi Cái Dầu, doi Phú Bình, doi Mỹ Bình . .
Đây là vùng đất có nguồn gốc trầm tích ven sông, được xếp vào nhóm đất phù sa nâu tươi bồi, thoát thủy tốt .
- Nhóm đất phù sa xám nâu được bồi, ít hữu cơ :Nhóm đất phù sa nầy chiếm một diện tích khá lớn ở 4 huyện cù lao :
Chợ
Mới, Phú Tân, An Phú, Tân Châu và dải cánh đồng ven sông Hậu thuộc
huyện Châu Phú, Châu Thành. Đây là phần đất bị ngập nước hàng năm vào
mùa lũ, địa hình khá bằng phẳng và trải rộng, vật liệu trầm tích chủ yếu
là sét, bột, lẫn chất hữu cơ, bề dày lớp phù sa từ 1 – 2m .Hiện nhóm
đất này chiếm diện tích khoảng 24.455 ha, dùng để trồng lúa 2 vụ là chủ
yếu .
-
Nhóm đất phù sa xám nâu ít được bồi :Nhóm đất này thường phân bố ở
những địa hình thấp, có cao trình từ 1,0-1,2m , đôi khi trũng cục bộ từ
0,8-1m , thường ở sâu nội đồng , cách xa sông Hậu, sông Tiền và rạch
Long Xuyên.Đất có độ phát triển cao từ tầng mặt đến độ sâu 60cm, nhưng
ngược lại ở tầng dưới , do đặc tính nước còn ngập nên đất còn ở trạng
thái khử và chưa phát triển.Nhóm đất này chiếm diện tích khoảng 44.525ha
, trong đó tập trung nhiều ở vùng ven các xã Ô Long Vĩ, Đào Hữu
Cảnh,Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), Tân Lập (Tịnh Biên), Vĩnh An, Tân Phú
(Châu Thành), Tây Phú, Vĩnh Nhuận, Vĩnh Phú (Thoại Sơn), một phần nhỏ
của huyện Chợ Mới và thị xã Châu Đốc.
-
Nhóm đất phù sa có phèn:Phân bố chủ yếu tập trung ở các huyện Châu
Thành, Châu Phú, Thoại Sơn, Tri Tôn với tổng diện tích 84.872ha, chiếm
24,7% tổng diện tích đất trồng toàn tỉnh. Đất có nguồn gốc chủ yếu là
bưng sau đê, địa hình thấp từ 0,8-1m và khá bằng phẳng.Tùy thuộc vào mức
độ chứa phèn và phát triển, nhóm đất này có thể chia thành :
+ Đất phù sa có phèn trung bình, ít được bồi, chưa phát triển.- Đất phù sa có phèn trung bình, ít được bồi , phát triển.
+
Đất có phản ứng hơi chua, pH từ 4,7-5,5 , đặc biệt lượng nhôm di động
và độ acid tổng số gia tăng nhanh từ độ sâu 90cm trở đi.Nhóm đất này chủ
yếu thuộc địa hình thấp, có mức độ bồi tụ yếu.
-
Nhóm đất phù sa cổ :Có tổng diện tích khoảng 94.446 ha, chiếm 27,68%
tổng diện tích đất ở An Giang, chủ yếu phân bố ở những nơi có địa hình
cao (ruộng trên) thuộc 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Chúng hình thành
nên dãy đồng bằng quanh núi như khu vực quanh núi Dài, núi Cấm, cánh
đồng ven kênh Vĩnh Tế giáp biên giới CPC.Đất phù sa cổ không gây độc cho
cây trồng nhưng nghèo dinh dưỡng và độ thoát thủy, tơi xốp kém. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng phù sa mới của sông Hậu, qua các đợt lũ tràn về, nên
đã hình thành tầng mặt mới, trộn lẫn với nhiều chất hữu cơ thứ sinh đã
tạo thành tầng tích tụ mùn khá dày, thích hợp cho cây trồng.
Nhóm đất đồi núi
Là
nhóm đất được hình thành từ quá trình phong hóa, xâm thực của các đồi
núi đá. Sau đó bị các dòng lũ mang xuống tích tụ thành những vành đai
thổ nhưỡng xung quanh núi dưới dạng : yếm phù sa, viên chùy, rảnh xói và
đất phong hóa.Đất đồi núi chủ yếu phân bố tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh
Biên, một phần nhỏ ở huyện Thoại Sơn (vùng Ba Thê). Tổng diện tích đất
đồi núi ở An Giang khoảng 29.320 ha, chiếm 8,6% tổng diện tích đất của
tỉnh.Đất đồi núi được phân thành các loại sau:
Đất sườn tích tại chỗ :
Chủ
yếu là đất phong hóa của đá gốc rồi trầm tích tại chỗ dọc theo các sườn
núi. Tùy theo địa hình dốc đứng hay lài mà có chiều dày sườn tích khác
nhau, nhưng thường không quá 5m. Đất phong hóa ở núi Cấm, núi Phú Cường,
Tà Pạ, núi Đất có bề dày tương đối giàu dinh dưỡng và thành phần cơ
giới lớn , có tỷ lệ giữa cát và sét tương đối thấp từ 1,25-1,8. Ngược
lại đất sườn tích của các núi có cấu tạo đá granitoit thường nghèo dinh
dưỡng , tỷ lệ cát và sét từ 2,5-2,8 , thường cát chiếm từ 68-70% . Loại
này phân bố khá nhiều ở các núi Cô Tô, núi Dài nhỏ, núi Trà Sư, núi Bà
Đội, núi Két…
Đất yếm phù sa:
Đất
yếm phù sa thường có tỷ lệ sét kao lin ít. Loại đất này phân bố thành
vành đai thấp chạy dài từ chân đồi Tức Dụp đến Ba Chúc, Lê Trì (Tri Tôn)
. Thành phần chủ yếu là sét, sét pha, với hàm lượng chất hữu cơ thường
cao. Đất có màu xám đen.
Đất thềm cao :
Là
loại đất cát, phân bố quanh chân núi mà người dân gọi là đất “ruộng
trên” , phân bố chủ yếu thành dãy ruộng dọc theo chân núi Dài, núi Cấm
và vành đai xung quanh cụm núi Dài, núi Két , núi Trà Sư thuộc địa phận
các xã Văn Giáo, Thới Sơn, An Cư, Xuân Tô (Tịnh Biên) và các xã Châu
Lăng, Núi Tô (Tri Tôn).Đất dọc theo các rảnh núi, khe núi: Gồm cát, sạn
sỏi bở rời từ trên núi do mưa lũ kéo xuống, tích lại theo các rảnh núi,
khe núi mà thành. Thông thường phân bố thành những thửa ruộng bậc thang,
càng xuống chân núi càng rộng . Đất chủ yếu là cát, có lẫn 1 ít chất
hữu cơ, phân bố ở các xã Lương Phi, Châu Lăng, Lê Trì (thung lũng giữa
núi Cấm và núi Dài), các xã An Cư, Nhơn Hưng, Văn Giáo (Tịnh Biên).
Đặc điểm địa chất
(23/12/2008)
An
Giang là 1 trong 2 tỉnh ĐBSCL có đồi núi, hầu hết đều tập trung ở phía
Tây Bắc của tỉnh, thuộc 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Đây là cụm núi
cuối cùng của dãy Trường Sơn , nên đặc điểm địa chất cũng có những nét
tương đồng với vùng Nam Trường Sơn, bao gồm các thành tạo trầm tích và
magma.
An
Giang là 1 trong 2 tỉnh ĐBSCL có đồi núi, hầu hết đều tập trung ở phía
Tây Bắc của tỉnh, thuộc 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Đây là cụm núi
cuối cùng của dãy Trường Sơn , nên đặc điểm địa chất cũng có những nét
tương đồng với vùng Nam Trường Sơn, bao gồm các thành tạo trầm tích và
magma.
Các thành tạo magma :
Trên
địa bàn An Giang, loại đá núi lửa có tuổi Jura thượng lộ ra ở phía Đông
núi Dài, phía tây vồ Bồ Hong của núi Cấm, phía Nam núi Phú Cường (Tà
Péc), phía Bắc đồi Sà Lôn. Thành phần chủ yếu của loại đá này là andesit
và những mảnh vỡ được kết dính lại. Đá andesit có màu xám đen,xám xanh
đôi khi phối lục. Đá có cấu tạo dòng chảy, đôi khi có cấu tạo hạt nhân
được lấp đầy bởi carbonat và thạch anh thứ sinh. Khoáng vật phụ trong đá
có apatit và ít quặng. Về thành phần thạch học, đá có hàm lượng oxyt
silie(SiO2) là 57-78% , độ kiềm trung bình nhưng thường tăng cao dọc
theo ranh giới tiếp xúc với các đá xung quanh.
- Loại đá granitoit tuổi Jura thượng :
Các
hoạt động mạnh mẽ của vỏ trái đất trong thời kỳ tạo sơn đã hình thành
nên các khối núi Cô Tô, núi Cấm, bao gồm 2 pha. Pha đầu là nhóm đá có
thành phần thạch học: diorit, diorit-pyrocene. Pha 2 có các loại đá
granite màu xám trắng, chứa nhiều mica và horblem, đặc biệt trong đá này
chứa nhiều khoáng vật biotite có màu đen tuyền khi bị phong hóa sẽ
chuyển sang thành plogopite (mica vàng) có màu vàng lấp lánh.
- Loại đá granite hồng tuổi Créta :
Đây là pha xâm nhập được xếp vào phức hệ Đèo Cả có tuổi địa chất là Créta. Chúng được chia thành 3 pha xâm nhập khác nhau .
Pha 1 có diện tích lộ hẹp, hình thành từng dải có chiều ngang từ 700m đến 800m, phân bổ ở sườn phía Đông của núi Cấm, từ khu Lâm Viên đến tiếp giáp với phía Bắc núi Nam Qui. Đá có màu phớt hồng.
Pha 2 xâm nhập chính ở khu vực núi Dài, phía tây Bắc núi Cấm,núi Tượng và các khối núi nhỏ như núi Két , Trà Sư , Ba Thê , Bà Đội. Đá có màu hồng.
Pha 3 phân bổ ở các khối núi nhỏ cô lập như núi Sập , thành phần chủ yếu là granite hạt nhỏ chứa biotite.
Pha 1 có diện tích lộ hẹp, hình thành từng dải có chiều ngang từ 700m đến 800m, phân bổ ở sườn phía Đông của núi Cấm, từ khu Lâm Viên đến tiếp giáp với phía Bắc núi Nam Qui. Đá có màu phớt hồng.
Pha 2 xâm nhập chính ở khu vực núi Dài, phía tây Bắc núi Cấm,núi Tượng và các khối núi nhỏ như núi Két , Trà Sư , Ba Thê , Bà Đội. Đá có màu hồng.
Pha 3 phân bổ ở các khối núi nhỏ cô lập như núi Sập , thành phần chủ yếu là granite hạt nhỏ chứa biotite.
Pha đá mạch,
thường gặp là ở các mạch aplite, pecmatite có kích thước nhỏ với bề
ngang từ vài cm đến vài mét phân bổ rải rác xen kẹp trong các núi Bà Đội
, Bà Khẹt, đặc biệt có mạch aplite ở núi Két có bề rộng đến vài mươi
mét và là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho kỹ nghệ gạch
ceramic.
- Loại đá micro-granite tuổi Créta :
Các loại đá này được xếp vào phức hệ Cà Ná, phân bổ chủ yếu ở các núi
cô lập như núi Sam, núi Trà Sư , núi Nổi. Đá có màu xám sáng,hạt nhỏ.
Nhiều nơi tập trung thành mỏ như mỏ molipdenite ở núi Sam.
Các thành tạo trầm tích :
Ở tỉnh An Giang được phân chia thành các phân vị địa tầng sau:
- Loại trầm tích có tuổi Trias-hệ tầng DầuTiếng :
Nó lộ ra ở địa hình đồi núi thấp như các núi Nam Qui,Tà Pạ, Phú Cường với thành phần từ dưới lên trên gồm :
Phần dưới chủ yếu là cát kết thạch anh, màu xám hoặc đỏ, phân lớp dày.
Phần dưới chủ yếu là cát kết thạch anh, màu xám hoặc đỏ, phân lớp dày.
Phần trên cát kết hạt vừa và hạt thô, thành phần đa khoáng, đôi khi chứa cuội với các thấu kính cuội kết.
- Loại trầm tích có tuổi Créta-hệ tầng Phú Quốc :
Các loại này xuất hiện ở Tri Tôn, phần cao của núi Nam Qui. Thành phần
chủ yếu của hệ tầng là cát kết thạch anh –fenspath màu trắng,đôi khi
phớt hồng, phân lớp trung bình đến dày, xen kẽ với những cuội kết .
- Loại trầm tích có tuổi Pleistocene :
Trên diện tích tỉnh An Giang được chia thành các phân vị địa tầng:
+ Pleistocene thượng có nguồn gốc trầm tích biển,tồn tại 2 kiểu mặt cắt như sau :
Kiểu mặt cắt thềm biển cổ:
tồn tại dưới dạng dải hẹp (chiều ngang từ 1m-2m) viền quanh các khối
núi thuộc các xã An Cư, Thới Sơn (huyện Tịnh Biên). Thành phần trầm tích
chủ yếu là cát hạt thô có độ lựa chọn kém lẫn ít bột và tảng lăn đá
gốc.
Kiểu mặt cắt trầm tích biển nông ven bờ:
lộ trên mặt dọc kênh Vĩnh Tế, từ An Phú đến Lạc Quới. Thành phần trầm
tích chủ yếu là bột, sét và 1 ít sạn sỏi ở phần giáp đáy.
- Loại trầm tích có tuổiHolocene:
+ Holocene trung có nguồn gốc trầm tích biển:
Địa bàn An Giang, các trầm tích xếp vào phân vị này lộ trên mặt dưới
dạng các dải thềm hẹp với bề ngang thay đổi từ 1-2km đến 4-5km viền
quanh các khối núi ở khu vực Tri Tôn , Ba Thê , núi Sập. Chúng được chia
thành 2 kiểu mặt cắt như sau:
Mặt cắt kiểu thềm biển có thành phần chủ yếu là cát hạt trung-mịn lẫn bột sét và chứa ít sỏi sạn.
Mặt cắt kiểu thềm biển có thành phần chủ yếu là cát hạt trung-mịn lẫn bột sét và chứa ít sỏi sạn.
Mặt cắt kiểu trầm tích biển nông, cửa sông, vũng vịnh
chỉ gặp trong các lỗ khoan độ sâu từ 2-3m và thay đổi từ 2-3m đến hơn
10m. Trầm tích chủ yếu là bột, cát, sét, mịn, không nhiều sỏi, sạn ở
đáy, có nơi vỏ sò tập trung dạng dải (ám tiêu) như ở khu vực Vọng Thê
(huyện Thoại Sơn).
+ Holocene trung có nguồn gốc trầm tích sông - biển:
Nhóm trầm tích này thường lộ ra rộng rãi trên mặt,chiếm phần lớn diện
tích tỉnh An Giang dưới dạng đồng bằng. Trầm tích này có quan hệ chuyển
tiếp với các trầm tích biển tuổi Holocene giữa , thành phầnchủ yếu là
sét, sét bột, bột có màu xám xanh đến nâu , vàng…
+ Holocene trung-thượng phần dưới có nguồn gốc trầm tích biển:
Nó lộ ra ở khu vực Ba Chúc, Vĩnh Gia ở dạng đồng bằng thấp (có độ cao
1,5-2m) tạo thành dãy uốn lượn kéo dài theo hướngTây Bắc-Tây Nam. Thành
phần trầm tích gồm sét, cát mịn và không nhiều sạn,sỏi ở đáy.
+ Holocene trung-thượng phần trên có nguồn gốc trầm tích sông- đầm lầy:
Nhóm này phân bố dạng dải trũng thấp, kéo dài theo hướng gần Bắc-Nam từ
núi Sam tới Cô Tô, với bề ngang thay đổi từ 4-5km đến cả chục km. Ngoài
ra, chúng còn có mặt không nhiều ở Ba Chúc và Lương Phi. Thành phần
trầm tích gồm sét, bột, mùn thực vật phân hủy kém, than bùn.
+ Holocene thượng được phân thành 2 dạng trầm tích khác nhau:
Trầm tích sông-đầm lầy: Chủ yếu phân bổ ở Vĩnh Gia, Ba Chúc, An Tức, Tà Đảnh, trên độ cao địa hình 1-2m tạo thành các dải kéo dài theo hướng Tây Bắc-Đông Nam hoặc hướng kênh tuyến.Thành phần chủ yếu của tầng này là than bùn, xác thực vật, rất ít sét … lấp đầy lòng sông cổ.
+ Trầm tích sông:
Trầm tích sông còn gọi là trầm tích phù sa mới. Chúng phân bố phổ biến
dọc theo 2 bên bờ sông Tiền , sông Hậu và một số sông rạch khác. Dải bồi
tích có bề rộng không đồng nhất mà thay đổi phụ thuộc vào sự uốn khúc
của sông. Đặc biệt là những nơi dòng sông đang có sự dời lòng như ởcác
xã Phú Hữu, Vĩnh Trường , Vĩnh Hòa (Tân Châu), xã Đa Phước (An Phú), xã
Khánh Hòa (Châu Phú) … Chúng tạo nên những bãi bồi được ngăn cách bằng
những trũng nhỏ dưới dạng những con rạch (xép). Thành phần trầm tích chủ
yếu là bột sét và cát mịn. Tùy thuộc vào điều kiện và môi trường thành
lập mà chúng được chia thành các kiểu trầm tích :
Trầm tích đê tự nhiên:
Là dải đất khá cao, phát triển dọc 2 bên bờ sông, rạch lớn do vật liệu
các trận lũ bồi đắp nên. Bề ngang các dải đê tự nhiên từ vài chục mét,
có nơi đến vài km, do sự chuyển dịch liên tục của dòng sông như ở Thạnh
Mỹ Tây (Châu Phú), rạch Cỏ Lau ở Vĩnh Hòa (Tân Châu). Đê tự nhiên trở
thành đất thổ cư, khu đô thị ,đường giao thông.
Trầm tích bưng sau đê:
Thường xuất hiện ngay sau đê hoặc giữa các đê tự nhiên,là nơi có địa
hình hơi trũng, vật liệu trầm tích chủ yếu là sét , bột. Bưng sau đê
thường được dùng cho trồng lúa; dễ bị lầy hóa, ngập úng.
Trầm tích đồng lụt (hay là đồng phù sa):
Đây là diện tích bị ngập lũ hàng năm. Do mặt đất trải rộng, thời gian
ngập lũ lâu nên đồng lụt là một bồn khổng lồ để phù sa mịn hạt của sông
trầm lắng. Càng xa sông, lớp phù sa trầm lắng càng mịn hạt và ít dần.
Trầm tích bưng lầy và trấp:
Là các trũng nhỏ, dạng nằm cách xa sông, đất không có điều kiện thấm
nước và thoát nước, nên độ ẩm duy trì suốt năm. Đây là nơi tiếp giáp
giữa đồng lụt thấp và thềm bồi tích chân núi. Trầm tích chủ yếu là xác
bã thực vật sinh sống trong môi trường đầm lầy, khi chết tạo thành lớp
hữu cơ dày 1-2m, vượt quá 20% trong đất. Bưng lầy lúc đó gọi là đất
trấp. Ở An Giang, bưng lầy và trấp phân bố thành đai kéo dài ở phía Đông
của vùng Bảy Núi…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét