GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẮC NINH
Bắc
Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, gần sân bay Quốc tế Nội Bài,
nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bắc
Ninh có các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh
với các Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam:
- Đường Quốc lộ 1A
- Quốc lộ 1B mới
- Quốc lộ 18: Quốc lộ 18 sau khi cải tạo sẽ là đường giao thông rất
thuận tiện đi sân bay Quốc tế Nội Bài và đi cảng biển nước sâu Cái Lân,
Quảng Ninh.
- Quốc lộ 38 Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc,
Bắc Ninh có đường sông thuận lợi nối với các vùng lân cận, như cảng
biển Hải Phòng và các trung tâm kinh tế lớn ở miền Bắc. Bắc Ninh có tiềm
năng kinh tế và văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Miền đất
Kinh Bắc xưa là vùng đất địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương
Vương, Lý Bát Đế nơi hội tụ của kho tàng văn hoá dân gian. Có nhiều công
trình văn hoá nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu dân ca quan họ trữ
tình đằm thắm, dòng nghệ thuật tạo hình, tranh dân gian Đông Hồ nổi
tiếng với bạn bè trong và ngoài nước.
Thời Vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Ninh ngày nay thuộc
bộ Võ Ninh. Đời Hồng đức gọi là Kinh Bắc. Từ ngàn xưa, Kinh Bắc đã nổi
tiếng là đất văn vật, quê hương của làn điệu dân ca quan họ ngọt ngào,
của tranh dân gian Đông Hồ, nơi sản sinh ra nhiều bậc kỳ tài và cũng là
điạ phương có nhiều địa danh gắn liền với chiến công chống giặc ngoại
xâm hiển hách của dân tộc Việt Nam. Trong những kỳ thi đình dưới các
triều đạo phong kiến, cả nước chọn được 47 trạng nguyên và 2991 tiến sẽ
thì riêng Kinh Bắc đã có tới 17 trạng nguyên và 622 tiến sĩ.
Địa hình Bắc Ninh tương đồi bằng phẳng. Tuy dốc từ bắc xuống nam và từ
tây sang đông, nhưng độ dốc không lớn. Vùng đồng bằng chiếm gần hết diện
tích tự nhiên tòan tinh, có độ cao phổ biến 3 - 7m so với mặt biển. Do
được bồi đắp bởi các sông lớn như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình
nên vùng đồng bằng chủ yếu là đất phù sa màu mỡ. Vùng gò đồi trung du
chỉ chiếm 0,5% diện tích tự nhiên và phần lớn là đồi núi thấp, cao nhất
là núi Hàm Long 171m.
Bắc
Ninh có diện tích tự nhiên chỉ chiếm 0,2% diện tích tự nhiên cả nước và
là điạ phương có diện tích tự nhiên nhỏ nhất trong 64 tỉnh, thành phố.
Theo kết quả tổng điều tra đất trong tổng diện tích đất tự nhiên của Bắc
Ninh, đất nông nghiệp chiếm 59,2%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 0,76%;
đất chuyên dùng chiếm 21,02%; đất ở chiếm 12,8%; còn lại 0,7% là đất có
mặt nước, sông suối, đồi núi chưa sử dụng.
Năm
2010, dân số Bắc Ninh là 1.038.229 người, chỉ chiếm 1,21% dân số cả
nước và đứng thứ 39/64 tỉnh, thành phố, trong đó nam 511,7 nghìn người
và nữ 526,5 nghìn người; khu vực thành thị 268,5 nghìn người, chiếm
25,9% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn 769,7 nghìn người, chiếm
74,1%. Tính ra, mật độ dân số Bắc Ninh năm 2010 đã lên tới 1,262
người/km2, gần gấp 5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước và là địa
phương có mật độ dân số cao thứ 3 trong số 64 tỉnh, thành phố, chỉ thấp
hơn mật độ dân số của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh.
Theo sự sắp đặt hành chính hiện nay, Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính bao
gồm thành phố Bắc Ninh và 7 huyện, thị xã là: Yên Phong, Quế Võ, Tiên
Du, Từ Sơn, Thuận Thành, Lương Tài và Gia Bình. Năm 2010, Bắc Ninh có
126 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 102 xã, 17 phường và 7 thị trấn.
Ngày
nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và thế giới, lực lượng
lao động Bắc Ninh đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi khắt khe nhất của
thời đại.
Bắc Ninh có 2 trường Đại học, 6 trường Cao đẳng, 8 trường THCN và dạy nghề
Về an ninh, trật tự luôn ổn định, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Các
thủ tục hành chính: Với chủ trương đổi mới, thông thoáng ưu đãi khuyến
khích đầu tư, tỉnh Bắc Ninh đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
thực hiện cơ chế quản lý "Một cửa, tại chỗ", Ban quản lý các Khu công
nghiệp Bắc Ninh là cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp giải quyết mọi
công việc đối với các nhà đầu tư, đầu tư vào Khu công nghiệp, kịp thời
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đảm bảo môi trường đầu tư cởi mở,
thuận lợi cho các nhà đầu tư. UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Quy định về
thủ tục hồ sơ, quy chế phối hợp thẩm định dự án, cấp Giấy phép đầu tư
vào Khu công nghiệp Bắc Ninh và Quy chế phối hợp quản lý nhà nước đối
với các Khu công nghiệp. Với những quy định đó sẽ giải quyết tốt nhất
các yêu cầu của nhà đầu tư.
Một vài chỉ số đáng quan tâm
Dân số: 1.038.229 người (năm 2010). Trong đó: 652.302 người có độ tuổi lao động.
Khí hậu: Thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, có mùa đông lạnh.
Cơ sở khám chữa bệnh: 140 cơ sở. Trong đó có 04 bệnh viện chuyên khoa tỉnh.
Di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng: 203 di tích.
Thành phố: Thành phố Bắc Ninh
Khí hậu: Thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, có mùa đông lạnh.
Cơ sở khám chữa bệnh: 140 cơ sở. Trong đó có 04 bệnh viện chuyên khoa tỉnh.
Di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng: 203 di tích.
Thành phố: Thành phố Bắc Ninh
Huyện, thị xã: Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong, Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn
Diện tích tự nhiên: 82,271.2 ha. Trong đó:
- Đất sản xuất nông nghiệp: 42,941.6 ha
- Đất nuôi trồng thủy sản: 5,007.9 ha
- Đất lâm nghiệp: 625.3 ha
- Đất chuyên dùng: 17,293.2 ha
- Đất ở: 9,941.2 ha
- Đất chưa sử dụng: 579.6 ha
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ TỈNH BẮC NINH
Bắc
Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng, nằm trong tam giác
kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh và là cửa ngõ phía Đông
Bắc của thủ đô Hà Nội. Tỉnh có địa giới hành chính tiếp giáp với các
tỉnh: Bắc Giang ở phía Bắc, Hải Dương ở phía Đông Nam, Hưng Yên ở phía
Nam và thủ đô Hà Nội ở phía Tây. Theo số liệu thống kê năm 2010 tỉnh Bắc
Ninh có diện tích tự nhiên 823km2 với tổng dân số 1.038.229 người.
Vùng
đất trù phú nơi đây khi xưa vốn là “xứ Kinh Bắc”, nổi tiếng với nhiều
làng nghề và các lễ hội dân gian phong phú diễn ra hàng năm. Vào năm
1822, xứ Kinh Bắc được Nhà Nguyễn đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Đến tháng
10.1962, theo Nghị quyết của Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tỉnh Bắc Ninh sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Từ đó “Bắc
Ninh” chỉ còn là tên của một đơn vị hành chính trong tỉnh Hà Bắc và có
tên gọi là Thị xã Bắc Ninh. Sau đó, đến ngày 6.11.1996, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 9 kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết
tái lập tỉnh Bắc Ninh.
Nhìn
từ vệ tinh, tỉnh Bắc Ninh nằm ở phía Bắc của đồng bằng châu thổ Sông
Hồng, địa hình tương đối bằng phẳng, được ngăn cách với vùng trung du và
miền núi phía Bắc bởi hệ thống sông Cầu. Ngoài ra, Bắc Ninh còn
có hai hệ thống sông lớn là sông Thái Bình và sông Đuống. Hệ thống sông
ngòi đã tạo nên một mạng lưới vận tải đường thủy quan trọng, kết nối
các địa phương trong tỉnh và nối liền tỉnh Bắc Ninh với các tỉnh khác
trong vùng đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, chúng còn tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động nông nghiệp và sinh hoạt của dân cư trong tỉnh.
Bắc
Ninh ở vị tri thuận lợi về giao thông đường bộ và đường không. Các
tuyến đường huyết mạch: Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường
sắt Hà Nội- Lạng Sơn, Hà Nội- Quảng Ninh nối liền Bắc Ninh với các trung
tâm kinh tế, văn hóa và thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam, với
cảng hàng không quốc tế Nội Bài và liên thông với hệ thống các trục
đường quốc lộ đến với mọi miền trong cả nước.
Bắc
Ninh không giàu về tài nguyên khoáng sản và cũng ít tài nguyên rừng,
nhưng vô cùng phong phú về tài nguyên nhân văn. Đây là một trong những
miền quê “địa linh nhân kiệt”, một trong những nơi hội tụ nhiều nhất các
di tích lịch sử, văn hóa. Tiêu biểu là chùa, đền, đình, miếu, các loại
hình nghệ thuật dân gian gắn liền với các lễ hội, các làng nghề truyền
thống. Đặc biệt, các làn điệu dân ca quan họ không những đã trở thành di
sản văn hóa của cả nước mà còn vượt qua mọi không gian, thời gian đến
với bạn bè quốc tế.
Nhờ
vị trí địa lý thuận lợi cùng với các cơ chế và giải pháp phát triển
kinh tế hợp lý, Bắc Ninh đã và đang khai thác các tiềm năng hiện có của
tỉnh để trở thành một trung tâm kinh tế- văn hóa phụ trợ, một thành phố
vệ tinh quan trọng cho Hà Nội và là một điểm nhấn trong tam giác kinh tế
trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng-Quảng Ninh. Nơi đây vừa là thị trường tiêu
thụ, vừa là khu vực cung cấp nguồn nhân lực, sản phẩm nông sản, vật
liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ… cho các tỉnh thành trong vùng đồng
bằng Sông Hồng và các vùng lân cận. Cùng với việc khai thác lợi thế của
các làng nghề thủ công truyền thống, Bắc Ninh đang có nhiều chính sách
thu hút đầu tư, mở rộng về quy mô sản xuất, đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo thành các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp
vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề nhằm cung cấp các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, trong nước và xuất khẩu. Song song với
việc phát triển công nghiệp, Bắc Ninh đang tập trung khai thác hiệu quả
diện tích đất nông nghiệp- nguồn tài nguyên đất chiếm hơn 60% tổng diện
tích tự nhiên- bằng việc hình thành và phát triển các vùng cây, con có
giá trị thương mại theo hướng chuyên canh. Tỉnh đang từng bước đưa chăn
nuôi trở thành một ngành chính tạo nguồn nguyên liệu cho phát triển công
nghiệp chế biến nông sản, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn theo
hướng hiện đại hóa.
Với
mục tiêu phát triển toàn diện, Bắc Ninh luôn chú trọng vào việc phát
triển con người và các vấn đề xã hội, nâng cao trình độ dân trí và mức
sống của nhân dân. Phát huy truyền thống cần cù, khéo léo, năng động
sáng tạo của người dân Kinh Bắc, nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng lao
động, kỹ năng giao tiếp cho lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế.
Tuy
là tỉnh có diện tích nhỏ nhất đồng bằng Sông Hồng và cũng là tỉnh nhỏ
nhất nước, với dân số cũng chỉ hơn một triệu người, nhưng Bắc Ninh có
tốc độ tăng GDP năm 2010 là 32,74%, đứng vị trí thứ nhất trong số các
tỉnh của đồng bằng Bắc Bộ.
Về
môi trường đầu tư, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2008 của Bắc
Ninh là 59,57, đứng thứ 16 trong số 63 tỉnh thành trên toàn quốc. Nhiều
tập đoàn công nghiệp lớn như Canon, Nippon Steell, Nikon Seiki,
Sumsung, Sentec, Nokia… đã đầu tư, mở cơ sở sản xuất tại Bắc Ninh.
Nhờ
phát huy những lợi thế về vị trí địa lý của tỉnh và những truyền thống
nhân văn tốt đẹp, kết hợp với việc chủ động tìm tòi và khai thác những
cơ hội phát triển trong thời đại mới, Bắc Ninh đang từng bước khẳng định
vị thế của mình trong khu vực đồng bằng Sông Hồng nói riêng và cả nước
nói chung. Bắc Ninh còn tiến nhanh và vững chắc hơn nữa trong bước đường
hội nhập, xây dựng một xã hội văn minh hiện đại.
HÀNH CHÍNH TỈNH BẮC NINH
Bắc
ninh là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc
Kỳ vào năm 1831, nguyên là xứ Kinh Bắc năm Hồng Đức 21 (1490), đổi thành
Kinh Bắc thời trấn thời vua Gia Long (1802-1819), rồi trở thành Bắc
Ninh trấn năm 1822.
Trong
thời gian hơn 500 năm hình thành và phát triển (1490-2008), vùng đất
Bắc Ninh đã trải qua nhiều biến động lịch sử với nhiều thay đổi về địa
giới và tên gọi hành chính.
Thời vua Gia Long (1802-1819):
Kinh Bắc trấn gồm 4 phủ và 20 huyện: Phủ Thuận An gồm 5 huyện (Gia Lâm,
Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Lang Tài), phủ Từ Sơn gồm 5 huyện (Đông
Ngạn, Quế Dương, Tiên Du, Võ Giàng, Yên Phong), phủ Bắc Hà gồm 4 huyện
(Kim Hoa, Thiên Phúc, Yên Việt, Hiệp Hòa) và phủ Lạng Giang gồm 6 huyện
(Yên Dũng, Lục Ngạn, Bảo Lộc, Yên Thế, Phượng Nhỡn, Hữu Lũng). Phía Bắc
và Đông Bắc của tỉnh giáp Lạng Sơn, phía Đông và Đông Nam giáp Hải
Dương, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Tây Nam giáp tỉnh Hà Nội, phía
Tây giáp tỉnh Sơn Tây, phía Tây Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên.
Thời kỳ 1831-1889:
Kinh Bắc trấn được đổi tên thành Bắc Ninh trấn năm 1822, rồi Bắc Ninh
tỉnh năm 1831. Thời kỳ này, Bắc Ninh tỉnh được chia thành 4 phủ, 2 phân
phủ và 20 huyện: Phủ Từ Sơn gồm 5 huyện (Đông Ngạn, Yên Phong, Tiên Du,
Quế Dương, Võ Giàng); phủ Thuận Thành gồm 3 huyện (Siêu Loại, Gia Bình,
Lương Tài); phân phủ Thuận Thành gồm 2 huyện (Gia Lâm, Văn Giang); phủ
Đa Phúc gồm 3 huyện (Đa Phúc, Hiệp Hòa, Kim Anh); phủ Lạng Giang gồm 5
huyện (Phượng Nhỡn, Bảo Lộc, Yên Dũng, Việt Yên, Lục Ngạn); phân phủ
Lạng Giang gồm 2 huyện (Yên Thế, Hữu Lũng). Ranh giới giữa Bắc Ninh với
các tỉnh lân cận thời kỳ này giữ nguyên như thời Gia Long.
Thời kỳ 1890-1961: Địa
giới hành chính Bắc Ninh được thay đổi nhiều lần. Năm 1895, tách huyện
Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Lục Ngạn, Hiệp Hòa, Yên Thế, Việt Yên, Hữu Lũng,
Bảo Lộc để thành lập tỉnh Bắc Giang. Đến năm 1903, tách 3 huyện Kim Anh,
Đông Anh, Đa Phúc sang tỉnh Phúc Yên. Năm 1960, huyện Văn Giang của Bắc
Ninh được tách sang tỉnh Hưng Yên. Tháng 4/1961, tách huyện Gia Lâm
nhập vào Hà Nội.
Thời kỳ 1962-1996: Tháng
10/1962, tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà
Bắc; thị xã Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của Hà Bắc. Mặc dù không còn giữ
vai trò tỉnh lỵ như trước đây nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung
tâm kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của tỉnh Hà Bắc.
Thời kỳ 1996-2008: Ngày 06 tháng 11 năm 1996 tỉnh Bắc Ninh được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10, với diện tích 797,9 km2, dân
số 922 210 người, Bắc Ninh lúc này có 6 đơn vị hành chính, gồm thị xã
Bắc Ninh và 5 huyện: Quế Võ, Yên Phong, Tiên Sơn, Thuận Thành, Gia
Lương, Thị xã Bắc Ninh trở thành tỉnh lỵ của Bắc Ninh.
Hiện này, tỉnh Bắc Ninh có diện tích tự nhiên 82,271.2 km2,
dân số 1. 038.299 người. Về mặt hành chính, tỉnh có 8 đơn vị hành chính
cấp huyện, gồm: 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện; 126 đơn vị hành chính
cấp xã, gồm: 17 phường, 6 thị trấn, 102 xã.
· Thành phố Bắc Ninh
Thời
điểm tỉnh Bắc Ninh được tái lập, thị xã Bắc Ninh gồm 5 phường và 4 xã.
Tháng 4/2002, phường Suối Hoa được thành lập; tháng 8/2003 phường Vũ
Ninh, Kinh Bắc, Đại Phúc được thành lập. Thị xã Bắc Ninh lúc này có 9
phường và 1 xã. Đến tháng 1/2006, thị xã Bắc Ninh được nâng cấp thành
thành phố Bắc Ninh. Tháng 4/2007, thành phố Bắc Ninh được mở rộng trên
cơ sở lấy 4 xã của huyện Yên Phong, 3 xã của huyện Quế Võ, 2 xã của
huyện Tiên Du. Cùng thời điểm này, phường Võ Cường được thành lập. Hiện
nay thành phố Bắc Ninh có 10 phường và 9 xã với diện tích tự nhiên
82,609 km2, dân số 168,236 người. Đây là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng của tỉnh.
· Thị xã Từ Sơn
Thời
điểm tỉnh Bắc Ninh được tái lập, Từ Sơn là thị trấn huyện lỵ của Tiên
Sơn, 8/1999, huyện Từ Sơn được thành lập trên cơ sở tách từ một phần
diện tích của huyện Tiên Sơn. Từ Sơn lúc này gồm 10 xã và thị trấn Từ
Sơn. Tháng 9/2008, thị xã Từ Sơn được thành lập trên cơ sở di đất tự
nhiên 61,322 km2, dân số 143,105 người, bao gồm 7 phường và 5 xã.
· Huyện Yên Phong
Thời
điểm tỉnh Bắc Ninh được tai lập, huyện Yên Phong gồm 18 xã. Đến tháng
1/1998 thị trấn Chờ được thành lập và trở thành huyện lỵ của Yên Phong.
Tháng 4/2007, sau khi chuyển 4 xã về thành phố Bắc Ninh, huyện Yên Phong
còn lại 13 xã và 1 thị trấn với diện tích tự nhiên là 96,862 km2, dân số 128,603 người.
· Huyện Quế Võ
Thời
điểm tỉnh Bắc Ninh được tái lập, huyện Quế Võ bao gồm thị trấn Phố Mới
và 23 xã. Tháng 4/2007, sau khi chuyển 3 xã về thành phố Bắc Ninh, huyện
Quế Võ còn lại 20 xã và 1 thị trấn với diện tích tự nhiên là 154,848 km2, dân số là 136,578 người.
· Huyện Tiên Du
Tháng
8/1999, huyện Tiên Du được thành lập trên cơ sở tách từ một phần diện
tích của huyện Tiên Sơn, thời điểm này huyện có 15 xã và 1 thị trấn.
Tháng 4/2007, sau khi chuyển 2 xã về thành phố Bắc Ninh, huyện Tiên Du
còn lại 13 xã và 1 thị trấn với diện tích tự nhiên là 95,687 km2, dân số là 126,326 người. Thị trấn Lim là thị trấn huyện lỵ của huyện.
· Huyện Thuận Thành
Thời
điểm tỉnh Bắc Ninh được tái lập, huyện có 18 xã. Tháng 2/1997, thị trấn
Hồ được thành lập và trở thành huyện lỵ của Huyện. Hiện nay, huyện có
diện tích tự nhiên là 117,910 km2, dân số là 146,563 người, bao gồm 1 thị trấn và 17 xã.
· Huyện Lương Tài
Tháng
8/1999, huyện Lương Tài được thành lập trên cơ sở tách từ một phần diện
tích của huyện Gia Lương, gồm 13 xã và 1 thị trấn. Hiện nay huyện Lương
Tài có diện tích đất tự nhiên là 105,666 km2, dân số là 96,580 người. Thị trấn Thứa là thị trấn huyện lỵ của huyện.
· Huyện Gia Bình
Tháng
8/1999, huyện Gia Bình được thành lập trên cơ sở tách từ một phần diện
tích của huyện Gia Lương, gồm 13 xã. Tháng 4/2002 thị trấn Gia Bình được
thành lập và trở thành thị trấn huyện lỵ của huyện. Hiện nay, huyện có
13 xã và 1 thị trấn với diện tích đất tự nhiên là 107,798 km2, dân số là 92,238 người.
ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN – TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, thuộc khu vực đồng
bằng Bắc Bộ. Vị trí địa lý nằm trong phạm vi từ 20o 58’ đến 21o 16’ vĩ độ Bắc và 105o 54’ đến 106o 19’ kinh
độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang; Phía Đông và Đông Nam giáp với
tỉnh Hải Dương; Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên; Phía Tây giáp thành phố Hà
Nội.
Địa hình
Với
vị trí nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ nên địa hình của tỉnh Bắc Ninh
khá bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang
Đông, được thể hiện qua các dòng chảy nước mặt đổ về sông Cầu, sông
Đuống và sông Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình trên toàn tỉnh không
lớn. Vùng đồng bằng chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh có độ cao phổ
biến từ 3 – 7m so với mực nước biển và một số vùng thấp trũng ven đê
thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ. Địa hình trung du đồi núi
chiếm tỷ lệ rất nhỏ khoảng (0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn
tỉnh được phân bố rải rác thuộc thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện
Quế Võ, các đỉnh núi có độ cao phổ biến từ 60 – 100m, đỉnh cao nhất là
núi Bàn Cờ (thành phố Bắc Ninh) cao 171m, tiến đến là núi Bu (huyện Quế
Võ) cao 103m, núi Phật Tích (huyện Tiên Du) cao 84m và núi Thiên Thai
(huyện Gia Bình) cao 71m.
Thủy văn
Mạng lưới sông ngòi thuộc tỉnh Bắc Ninh khá dày đặc, mật độ khá cao từ 1,0 – 1,2km/km2 (theo số liệu của Đài KTTV Bắc Bộ) với 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình.
Sông Đuống: có chiều dài 67km trong đó 42km nằm trên phạm vi tỉnh Bắc Ninh, tổng lượng nước bình quân năm là 31,6 tỷ m3. Tại Bến Hồ, mực nước cao nhất ghi lại là 9,7m, mực nước thấp nhất tại đây là 0,07m; Lưu lượng dòng chảy vào mùa mưa là 3053,7m3/s và mùa khô là 728m3/s.
Sông
Cầu: Có tổng chiều dài là 289km, trong đó đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh
dài khoảng 69km và đồng thời là ranh giới tỉnh giữa Bắc Ninh với Bắc
Giang, có tổng lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m3. Tại
Đáp Cầu, mực nước cao nhất ghi được là 7,84m, mực nước thấp nhất là âm
0,19m. Lưu lượng dòng chảy vào mùa mưa là khoảng 1288,5m3/s và vào mùa khô là 52,74m3/s.
Sông
Thái Bình: Thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, sông có chiều
dài khoảng 93km trong đó đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 16km, có tổng
lưu lượng nước hàng năm khoảng 35,95 tỷ m3. Do phần lớn lưu
vực sông bắt nguồn từ các vùng đồi trọc miền Đông Bắc, đất đai bị xói
mòn nhiều nên hàm lượng phù sa lớn. Mặt khác, với đặc điểm lòng sông
rộng, độ dốc thấp và đáy nông nên sông Thái Bình là một trong những sông
có lượng phù sa bồi đắp nhiều nhất. Tại trạm thủy văn Cát Khê, lưu
lượng dòng chảy vào mùa mưa là khoảng 2224,71m3/s và vào mùa khô là 336,45m3/s.
Ngoài
ra trên địa bàn tỉnh còn có sông Cà Lồ nằm ở phía Tây của tỉnh, một
phần của sông có chiều dài 6,5km là đường ranh giới tỉnh giữa Bắc Ninh
với thành phố Hà Nội và hệ thống sông ngòi nội địa như sông Ngũ Huyện
Khê, sông Dâu, sông Bội, sông Tào Khê, sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng
Bình.
Với
hệ thống sông ngòi khá dày đặc và có lưu lượng nước mặt dồi dào, thủy
văn của tỉnh Bắc Ninh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác
tưới và tiêu thoát nước trên địa bàn toàn tỉnh.
Khí hậu
- Nhiệt độ - độ ẩm:
Bắc
Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa khá rõ rệt,
có mùa đông lạnh, mùa hè nóng nực. Trong khoảng 12 năm trở lại đây,
nhiệt độ trung bình năm là 24,0oC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 29,4oC (tháng 7), nhiệt độ trung bình thấp nhất là 17,4oC (tháng 1). Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 12,0oC.
Độ
ẩm tương đối trung bình của Bắc Ninh khoảng 81%, độ chênh lệch về độ ẩm
giữa các tháng không lớn, độ ẩm tương đối trung bình thấp nhất từ 72%
đến 75% thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12 trong năm.
- Lượng mưa:
Lượng
mưa trung bình hàng năm tại Bắc Ninh khoảng 1500mm nhưng phân bổ không
đều trong năm. Mùa mưa chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng
lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20%
tổng lượng mưa trong năm. Khu vực có lượng mưa trung bình lớn nhất thuộc
thị xã Từ Sơn, huyện Yên Phong, huyện Tiên Du, còn khu vực có lượng mưa
trung bình nhỏ nhất thuộc huyện Quế Võ.
- Số giờ nắng- gió:
Khoảng
12 năm trở lại đây, tổng số giờ nắng trung bình là 1417 giờ, trong đó
tháng có giờ nắng trung bình lớn nhất là tháng 7 với 168 giờ, tháng có
giờ nắng trung bình ít nhất là tháng 1 với 64 giờ. Hàng năm có hai mùa
gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh
hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió trung bình
vào tháng 1 khoảng 2,6m/s; gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến
tháng 9 mang theo hơi ẩm gây mưa rào, tốc độ trung bình vào tháng 7
khoảng 2,4m/s.
Tài nguyên đất
Theo số liệu kiểm kê đất năm 2010, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 82,271.2 km2;
Diện tích lớn nhất là đất nông nghiệp chiếm 65,85%, trong đó đất Lâm
nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ chỉ với 0,81%; Đất phi nông nghiệp chiếm 33,31%
trong đó đất ở chiếm 12,83%; Diện tích đất chưa sử dụng chiếm 0,84%.
Địa chất – khoáng sản
- Địa chất:
Đặc
điểm địa chất lãnh thổ Bắc Ninh mang những nét đặc trưng của cấu trúc
địa chất thuộc vùng trũng sông Hồng, có bề dày trầm tích đệ tứ chịu ảnh
hưởng rõ rệt của cấu trúc mỏng. Tuy nhiên nằm trong miền kiến tạo Đông
Bắc – Bắc Bộ nên cấu trúc địa chất lãnh thổ Bắc Ninh có những nét còn
mang tính chất của vòng cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Trên lãnh thổ Bắc
Ninh có mặt loại đất đá có tuổi từ Pecmi, Trias đến Đệ tứ, song chủ yếu
là thành tạo Đệ tứ bao phủ gần như toàn tỉnh. Lớp thành tạo Đệ tứ chiếm
ưu thế về địa tầng lãnh thổ, nằm trên các thành tạo cổ, có thành phần
thạch học chủ yếu là bồi tích, bột, cát bột và sét bột. Bề dày các thành
tạo đệ tứ biến đổi theo quy luật trầm tích rất rõ ràng, có độ dày tăng
dần từ 5m đến 10m ở các khu vực chân núi tới 20m đến 30m ở các vùng
trũng và dọc theo các con sông chính như sông Cầu, sông Thái Bình, sông
Đuống, sông Ngũ Huyện Khê. Các thành tạo Trias muộn và giữa phân bố hầu
hết ở trên các núi và dãy núi, thành phần thạch học chủ yếu là cát kết,
sạn kết và bột kết. Bề dày các thành tạo khoảng từ 200m
đến 300m. Với đặc điểm này địa chất của tỉnh Bắc Ninh có tính ổn định
hơn so với Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng Bắc Bộ khác trong việc
xây dựng công trình.
- Khoáng sản:
Bắc Ninh là tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu thiên về vật liệu xây dựng với các loại khoáng
sản sau: đất sét, cát xây dựng và than bùn. Trong đó, đất sét được khai
thác làm gạch, ngói, gốm có trữ lượng lớn được phân bổ dọc theo sông
Cầu, sông Đuống thuộc phạm vi các huyện Thuận Thành, Gia Bình, Quế Võ,
Yên Phòng và Tiên Du; Đất sét làm gạch chịu lửa phân bổ chủ yếu tại khu
vực phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh. Cát xây dựng cũng là nguồn tài
nguyên chính có trữ lượng lớn của Bắc Ninh được phân bố hầu như khắp
toàn tỉnh, dọc theo sông Cầu, sông Đuống.
Thảm thực vật
Thực
vật của Bắc Ninh chủ yếu là cây trồng hàng năm, cây trồng lâu năm và
rừng trồng. Trong đó diện tích cây trồng hàng năm chiếm 54% diện tích
đất tự nhiên, diện tích đất tự nhiên, diện tích đất trồng cây lâu năm và
đất rừng trồng chiếm diện tích chỉ xấp xỉ 1%.
DÂN CƯ- KINH TẾ- VĂN HÓA- XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH
Gần
một thế kỷ đã qua, Bắc Ninh - đất Kinh Bắc thủa nào vẫn là một miền đất
trù phú tiềm ẩn những điểu kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và gìn
giữ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt
trên chặng đường hơn 10 năm kể từ ngày tái lập, Bắc Ninh đã phát huy
truyền thông cách mạng, năng động, sáng tạo để thực hiện công cuộc đổi
mới, tạo nên những bước chuyển biến mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội.
Dân cư – lao động:
Theo
số liệu thống kê mới nhất năm 2010, Bắc ninh có 1.038.229 người . Trong
đó dân cư nông thôn chiếm trên 74,1%, dân số thành thị chiếm 25,9%.
Thành phần dân số này có xu hướng chuyển dịch theo cơ cấu tăng dân số
thành thị và giảm dần số nông thôn.
Dân
số Bắc Ninh là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động. Với chất
lượng ngày càng được nâng cao đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng lao
động hùng hậu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế -
văn hoá - xã hội của tỉnh.
Tăng trưởng kinh tế:
Nhìn
lại chặng đường gần15 năm xây dựng và phát triển, mặc dù còn không ít
khó khăn thử thách, song nhịp độc phát triển kinh tế luôn giữ ở mức cao.
Tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân 15,1%/năm, trong đó công nghiệp- xây
dựng tăng 18,3%, dịch vụ tăng 19,1%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 1,2%. Đây là mức tăng trưởng bình quân cao nhất trong các kỳ
thực hiện kế hoạch 5 năm từ khi tái lập tỉnh tới nay. Năm 2010, GDP bình
quân đầu người đạt 1.800USD vượt 38% mục tiêu Đại hội. Thu nhập bình
quân đầu người năm 2010 ước đạt 20,4 triệu đồng, trong đó nông thôn 16,4
triệu đồng.
Cơ cấu kinh tế:
Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng của ngành công nghiệp, xây dựng năm 2010 ước đạt 64,8%,
dịch vụ 24,2%, nông nghiệp đạt 11%. Đầu tư cho phát triển được đẩy mạnh,
góp phần tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội trong 5 năm ước thực hiện đạt trên 64.000 tỷ đồng, tăng bình
quân 33,6%, hàng năm đều đạt trên 50% GDP.
Công nghiệp:
Xuất
phát điểm từ một tỉnh mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp hiện đại hầu
như không đáng kể. Đến
nay, trên địa bàn tỉnh đã có 15 khu công nghiệp tập trung: hơn 18 khu
công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề với hàng trăm nhà máy
có công nghệ sản xuất hiện đại đã và đang hoạt động, Công
nghiệp Bắc Ninh từ vị trí thứ 19 (2004) vượt lên vị trí thứ 9 trong
toàn quốc. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,250 tỷ USD, tăng bình quân
67,2%/năm. Sản phẩm của ngành công nghiệp không chỉ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường trong nước mà còn tăng khối
lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể
để tiếp tục đầu tư phát triển. Ngành tiểu thủ công nghiệp rất phát triển
với nhiều làng nghề truyền thống và được ví là “ Vùng đất trăm nghề”,
một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường trong nước và thế giới
như đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ - Từ Sơn), đúc đồng (Đại Bái – Gia Bình)…
Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đứng thứ 10 toàn quốc và là một trong ba tỉnh dẫn đầu miền Bắc. Hoạt
động kinh tế đối ngoại được mở rộng, góp phần quảng bá hình ảnh Bắc
Ninh, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đứng thứ 7 trong toàn quốc,
thứ 2 trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Nông nghiệp:
Mặc
dù diện tích đất nông nghiệp giảm, sản xuất còn gặp nhiều khó khăn do
diễn biến bất thường của thời tiết nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng bình quân 3,5% (theo giá năm 1994). Năng xuất, sản lượng cây trồng
tăng đáng kể: năng suất lúa ước đạt 60 tạ/ha; sản lượng lương thực có
hạt ước đạt 60 tấn; giá trị trồng trọt ước đạt 73,9 triệu đồng/ha năm
2010, tăng gần gấp 2 lần so với mục tiêu Đại hội. Cơ cấu cây trồng gắn
với luân canh hợp lý, nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung cho thu
nhập gần 200 triệu đồng/ha như: lúa, khoai tây, rau xanh, hoa, cây cảnh…
Quan hệ sản xuất ở nông thôn có chuyển biến tích cực, bước đầu xuất
hiện mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp đô thị,
doanh nghiệp nông nghiệp, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển. Năm
2009, toàn tỉnh có 2.477 trang trại hoạt động đạt hiệu quả tốt đồng thời
có 568 HTX, 2 liên hiệp HTX, 628 tổ HTX hoạt động
trong
lĩnh vực nông nghiệp. Việc chuyển giáo, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ
giới hóa tăng nhanh, dịch vụ nông nghiệp phát triển, “dồn điền đổi thửa”
gắn với quy hoạch hạ tầng vùng sản xuất được coi trọng. Chăn nuôi phát
triển khá, đàn gia súc, gia cầm tăng đáng kể, bước đầu chuyển sang chăn
nuôi tập trung, giá trị sản xuất khu vực chăn nuôi tăng bình quân
4,6%/năm; nuôi trồng thủy sản tăng bình quân 11,4%/năm; trồng rừng tập
trung, trồng cây phân tán, cải tạo vườn tạp được duy trì và phát triển.
Hình thành mô hình chuỗi giá trị trong nông nghiệp với tổ hợp sản xuất
giống, thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm, tạo liên kết doanh nghiệp
hỗ trợ nông dân sản xuất, tiêu thụ hàng hóa.
Giao thông:
Bắc
Ninh là tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải.
Mạng lưới giao thông bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thuỷ đã được
hình thành từ lâu. Hơn nữa, đây là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội, trong khu
vực tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nôi - Hải Phòng - Quảng Ninh nên được
Chính phủ quan tâm đầu tư cho phát triển các tuyến đường huyết mạch.
Quốc lộ 1, quốc lộ 18, quốc lộ 38 và tuyến đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh -
Lạng Sơn. Trong khi đó hệ thống các tuyến đường trong nội tỉnh được
nâng cấp và xây dựng mới, đặt biệt phong trào xây dựng đường giao thông
nông thôn với phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm đã góp phần tích
cực vào việc mở rộng thông thương, khai thác tiềm năng của tỉnh, rút
ngắn “khoảng cách” giữa Bắc Ninh với các tỉnh trong vùng, giữa thành thị
và nông thôn. Tính đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 375 km đường quốc
lội trải nhựa. 290 km đường tỉnh lội phần lớn được trải nhựa và hơn 3000
km đường huyện, đường xã, đường thôn xóm trong đó có gần 2000km được
trải bê tông và lát gạch.
Bưu chính - viễn thông:
Trong
thời kỳ bùng nổ của công nghệ thông tinh, bưu chính - viễn thông luôn
được coi là một ngành đặc biệt quan trọng góp phần tích cực trong tăng
trưởng kinh tế của vùng, khu vực và quốc gia. Vì vậy, Nhà nước nói chung
và tỉnh Bắc Ninh nói riêng đã tập trung nguồn lực cho lĩnh vực này theo
hướng đi tắt, đón đầu, ứng dựng công nghệ tiên tiến hiện đại tạo nên sự
thay đổi rõ rệt cả về chất và lượng. Những năm đầu tái lập, toàn tỉnh
chỉ có duy nhất một đơn vị hoạt động bưu chính viễn thông là Bưu điện
tỉnh, đến nay đã có thêm 3 đơn vị khác hoạt động trong lĩnh vực này.
Mạng
lưới bưu chính viễn thông đã thay đổi căn bản từ hệ analog lạc hậu sang
hệ digital hiện đại. Mạng thông tin di động và Internet tuy mới xuất
hiện nhưng đã phát triển rất nhanh. Bắc Ninh là tỉnh xếp thứ 10/63 tỉnh
thành của cả nước về mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin năm
2009. Toàn tỉnh ước có 35.000 máy vi tính, 52 mạng Lan; mạng diện rộng
(WAN) của tỉnh được thiết lập kết nối các sở, ban, ngành, địa phương với
Trung tâm tích hợp dữ liệu tỉnh. Hoạt động của các mạng công nghệ thông
tin đã góp phần đáng kể trong công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành
chính của các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Văn hóa – Du lịch:
Bắc
Ninh được biết đến như là một miền đất của các di tích lịch sử, văn
hoá. Tiêu biểu nhất là chùa đền, đình miếu gắn liền với các lễ hội: đền
thờ Kinh Dương Vương, đền Đô, chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Phật Tích,
đền Bà Chúa Kho, Văn Miếu, hội Lim…Ngoài ra thu hút khách du lịch cần
phải kể đến các làng nghề truyền thống: tranh Đông Hồ, đúc đồng Đại Bái,
rèn Đa Hội, đồ gõ mỹ nghệ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng… và đặc biệt một loại
hình nghệ thuật làm nên bản sức văn hoá rất riêng của Bắc Ninh là các
làn điện dân ca Quan họ đằm thắm, trữ tình đã luôn là nguồn tài nguyên
phong phú cho phát triển du lịch của tỉnh. Sự kiện văn hóa quan trọng
đặc biệt, niềm tự hào của quê hương Bắc Ninh chính là việc UNESSCO công
nhận Dân ca quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại
Giáo dục – Đào tạo:
Bắc
Ninh, miền đất sinh thành vị tổ của nền khoa bảng Việt Nam, nơi có làng
Tam Sơn ( xã Tam Sơn - Từ Sơn), địa phương duy nhất trong cả nước có đủ
tam khôi với 22 vị tiến sĩ trong đó có 2 trạng nguyên. Truyền thống
hiếu học đất Kinh Bắc năm xưa đã và đang được lớp lớp con cháu kế thừa
và phát huy. Bắc Ninh là một trong 3 tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học đầu tiên trong cả nước vào năm 2000, đến năm 2002 đã hoàn thành
phổ cập trung học cơ sở và đang tiến hành phổ cập trung học phổ thông.
Mạng lưới trường học ở tất cả các bậc học từ mầm non, phổ thông phát
triển đều khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Cơ sở vật chất, đội
ngũ giáo viên trong các trường ngày càng được củng cố về chất lượng và
phát triển về số lượng theo hướng chuẩn hoá. Tính đến nay toàn tỉnh đã
có hơn 200 trường ở các ngành học, bậc học được công nhận là trường
chuẩn Quốc gia. Theo đó chất lượng giáo dục cũng từng bước được nâng
cao. Bắc Ninh là một trong những tỉnh có tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp
các cấp cao so với cả nước. Đặc biệt, Bắc Ninh luôn được xếp vào nhóm 10
tỉnh có tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng cao nhất
trong cả nước. Đi liền với các thành tích trên, công tác xã hội hoá
giáo dục được đẩy mạnh và phát triển bằng các hoạt động thiết thức thông
qua các trung tâm giáo dục cộng đồng, các hội khuyến học từ tỉnh, huyện
đến các thôn làng, dòng họ đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của
giáo dục tỉnh nhà.
Y tế - Sức khoẻ:
Công
tác y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân luôn luôn được tỉnh đặc biệt
chú trọng, Thể hiện ở mạng lưới các bệnh viện, phòng khám đã khoa khu
vực rải đều khắp các huyện/thị, 100% các xã/phường thị trấn có trạm y
tế, Cơ sở vật chất và đội ngũ y sỹ, bác sỹ tăng dần qua các năm. Số
giường bệnh trong toàn tỉnh 2.340; số cán bộ công tác ở ngành y là 3.249
người; trong đó tiến sỹ, thạc sỹ là 55 người, bác sỹ là 650 người. Năm 2010 đã thực hiện tiêm chủng cho 21.718 trẻ em trên toàn tỉnh.
Những
thành tựu về kinh tế, văn hoá xã hội, các kinh nghiệm tích luỹ được
trong hơn 10 năm đổi mới cùng với truyền thống cách mạng, năng động sáng
tạo, truyền thống hiếu học, những ưu đãi của thiên nhiên và nét văn hoá
đặc sắc của người dân Kinh Bắc là nguồn tài sản quý báu của tỉnh Bắc
Ninh, tạo cơ sở vững chắc để hội nhập và phát triển
QUY HOẠCH TỈNH BẮC NINH
Nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô
Hà Nội, trong những năm qua, Bắc Ninh đã đạt được những thành tựu đáng
kể về cả kinh tế - văn hóa và xã hội. Bắc Ninh sẽ còn tiến xa hơn nữa
trên bước đường hội nhập nếu biết khai thác và phát huy triệt để tiềm
năng và thế mạnh của mình. Để có những bước phát triển bền vững và đột
phá trong giai đoạn mới, Bắc Ninh đã đề xuất và lựa chọn phương án quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
1.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 13-14%; trong đó công
nghiệp và xây dựng tăng bình quân 15-16%, dịch vụ tăng 13,5-14,5%, nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 1,7-2%. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản khoảng 6,2%, công nghiệp và xây dựng 69,4%, dịch vụ 24,4%. GDP bình
quân đầu người đạt 3.500 USD (giá thực tế).
2.
Giá trị sản xuất công nghiệp 60.000 tỷ đồng; nông nghiệp 2.800 tỷ đồng;
phấn đấu đến năm 2015 số xã đạt tiêu chí nông thôn mới là 50%.
3.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 26,2%, đến năm 2015 tổng
kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD; nhập khẩu tăng bình quân hàng năm
24,9%, đạt 3,5 tỷ USD.
4.
Thu ngân sách trên địa bàn đạt 8.500 tỷ đồng, tăng bình quân 13,6%/năm,
trong đó thu nội địa tăng bình quân 19,3%/năm; vốn đầu tư xã hội hàng
năm đạt 45-50% GDP.
5.
Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, thực hiện giảm nghèo. Bảo
tồn và tôn tạo các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; tỷ lệ thất
nghiệp thành thị còn 3,2%; tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70%;
duy trì mức giảm sinh hàng năm 0,2- 0,3%o, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
1,1%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 10%; tỷ lệ hộ
nghèo giảm bình quân 2%/năm, phấn đấu đến năm 2015 còn 2,2% (theo tiêu
chí mới).
6.
Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo: 100% các phòng học
được kiên cố hóa; phấn đấu 69% trường mầm non, 100% trường tiểu học,
78,3% trường trung học cơ sở và 69,5% trường trung học phổ thông đạt
chuẩn quốc gia; 100% trạm y tế cấp xã được kiên cố hóa. Đạt 140 thuê bao
điện thoại/100 dân, 78 thuê bao Internet/100 dân (đã quy đổi).
7.
Bảo vệ và giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường; trên 98% dân
số được sử dụng nước hợp vệ sinh; thu gom 100% và xử lý 70% rác thải
sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế.
8.
Phát triển nguồn nhân lực, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 60%, trong đó
nông thôn 45%; giải quyết việc làm bình quân hàng năm 26-27 nghìn lao
động. Chăm sóc, nâng cao sức khoẻ và mức sống của nhân dân. Thu nhập
bình quân đầu người đạt 50 triệu đồng/năm, trong đó khu vực nông thôn là
36 triệu đồng/năm.
9.
Thực hiện tốt công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh
thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX).
10.
Tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Nâng cao chất lượng
công tác giáo dục chính trị tư tưởng; phấn đấu có 85% tổ chức cơ sở đảng
đạt trong sạch vững mạnh, không có cơ sở đảng yếu kém, 85% đảng viên đủ
tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát và công tác dân vận của Đảng; xây dựng chính quyền vững mạnh,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đẩy lùi
tệ quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm; nâng cao hơn nữa hiệu quả
cải cách hành chính, cải thiện quan hệ của cơ quan hành chính với dân.
Để
thực hiện thành công các mục tiêu của Quy hoạch tổng thể, tỉnh đã tiến
hành quy hoạch các địa phương, ngành và các lĩnh vực chủ yếu với các nội
dung tổng quát như sau:
Quy hoạch sử dụng đất
Dựa
trên những đặc tính nông hóa, thổ nhưỡng và những điều kiện khác như
khí hậu, sinh thái, nhu cầu sử dụng đất của các ngành, tỉnh đã quy hoạch
sử dụng đất như sau: đất nông nghiệp chiếm khoảng 46%, đất phi nông
nghiệp chiếm khoảng 54% tổng diện tích.
Quy hoạch phát triển dân cư, đô thị
Trong
thời gian tới tỉnh tiếp tục đầu tư và phát triển thành phố Bắc Ninh,
thị xã Từ Sơn và các thị trấn huyện lỵ khác trở thành các đô thị vệ tinh
của thủ đô Hà Nội. Đến năm 2020 hình thành 4 thị xã mới được phát triển
từ các thị trấn: thị trấn Hồ, thị trấn Chờ, thị trấn Lim, thị trấn Phố
Mới; cân bằng giữa dân số nông thong và thành thị, đồng thời bố trí lại
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiệu quả.
Quy hoạch các khu công nghiệp và làng nghề
Hoạt
động công nghiệp và làng nghề của Bắc Ninh đang trên đà phát triển.
Trong thời gian tới tỉnh đặt mục tiêu ưu tiên phát triển các ngành công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp bổ trợ, cơ khí chế tạo, chú trọng phát
triển mạnh nhóm ngành sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ của địa phương,
có khả năng thu hồi vốn nhanh và nhiều cơ hội chọn đối tác đầu tư từ
bên ngoài.
Tỉnh
đã đầu tư mở rộng và xây mới các khu công nghiệp tập trung, cụm công
nghiệp vừa và nhỏ, và xây dựng mới một số công trình trọng điểm. Đảm bảo
tưới cho 100% diện tích cây ngắn ngày; chủ dộng tiêu úng, chống hạn và
các nhu cầu dùng nước của ngành, lĩnh vực khác.
Quy hoạch nông nghiệp
Chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa bằng việc hình
thành các vùng chuyên canh tập trung có năng suất cao gắn với công nghệ
sau thu hoạch và công nghiệp chế biến. Tăng tỷ suất hàng hóa lên 60%
vào năm 2020, phấn đấu đạt khoảng 50-60% kim nghạch xuất khẩu của toàn
tỉnh. Giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm chăn nuôi và dịch vụ.
Quy hoạch bưu chính – viễn thông
Tiếp
tục phát triển nhanh, đảm bảo 100% nhu cầu dịch vụ viễn thông được đáp
ứng tốt. Phát triển loại dịch vụ đa truy nhập tích hợp nhiều loại dịch
vụ khác như: Điện thoại, Internet và truyền hình…
Quy hoạch giao thông
Mở
rộng, nâng cấp hệ thống đường quốc lộ, tỉnh lộ, đường sắt, nhà ga. Hoàn
thành việc nâng cấp nhựa hóa, bê tông hóa hệ thống đường giao thông cấp
huyện, xã. Nạo vét, chỉnh trị dòng chảy các đoạn sông đã khai thác lên
cấp I và II song song với việc nâng cấp một số cảng dọc sông Cầu, sông
Đuống, sông Thái Bình.
Quy hoạch thương mại – du lịch
Mở
rộng và phát triển thị trường trong tỉnh, với các tỉnh trong vùng, cả
nước và thị trường xuất khẩu. Trong đó đặc biệt chú trọng đến thị trường
Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội – Quảng Ninh – Hải Phòng, vùng
Đông Bắc. Hình thành các trung tâm thương mại và xúc tiến
thương mại cấp tỉnh. Đầu tư và quản lý tốt hệ thống chợ, hợp tác xã
thương mại, cửa hàng bán lẻ, siêu thị…Khuyến khích mọi thành phần kinh
tế cùng tham gia vào các hoạt động thương mại.
Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá, thu hút khách du lịch qua việc
quan tâm đào tạo phát triển nguồn nhân lực, đa dạng hóa các sản phẩm,
nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch đi đôi với việc giữ gìn, bảo tồn
các nét văn hóa đặc sắc của địa phương.
Quy hoạch văn hóa – thông tin – thể thao
Đẩy
mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Thể
dục thể thao quần chúng”. Bảo tồn, phát huy loại hình văn hóa tiêu biểu,
một số làng văn hóa quan họ, làng nghề thủ công truyền thống; bảo tồn,
tôn tạo các di tích văn hóa lịch sử và cách mạng. Đầu tư phát triển các
hoạt động văn hóa khác như: điện ảnh, xuất bản, phát hành. Xây dựng và
nâng cao chất lượng hoạt động các cơ sở, trung tâm luyện tập thể dục thể
thao để từ đó lựa chọn, đào tạo vận động viên thi đấu trong nước và
quốc thế.
Quy hoạch y tế - giáo dục
Cải
thiện nhanh chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe, chủ động phòng chống dịch
bệnh. Đầu tư, hiện đại hóa trang thiết bị y tế kỹ thuật cao, tăng cường
đào tạo và đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ, các cơ sở y tế chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân.
Phấn
đấu 100% các em đủ độ tuổi được đến trường ở các lớp mẫu giáo, tiểu
học, THCS; hoàn thành phổ cập PTTH; phấn đấu hầu hết các trường đại học
đạt chuẩn quốc gia. Đa dạng hóa các loại hình giáo dục; mở rộng mô hình
đào tạo và phát triển hệ thống các trường Cao đẳng, Đại học trong tỉnh.
Quy hoạch môi trường
Để
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, Bắc Ninh đã đề ra những mục tiêu có
tính định hướng đến năm 2020. Ngăn chặn về cơ bản mức độ gia tăng ô
nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường: Phấn đấu
80% cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp giấy chứng nhận; 100% khu đô thị,
khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường;
30% chất thải thu gom được tái chế công nghiệp; 100% dân số thành thị và
90% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, 100% sản phẩm hàng hóa
xuất khẩu và 50% hàng tiêu dùng trong tỉnh được ghi nhận đạt tiêu chuẩn
ISO 14001.
LỊCH SỬ
Vài nét về lịch sử tỉnh Bắc Ninh
Dưới
các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được gọi là Kinh Bắc
mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú về mặt
vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng
tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế
lực ngoại bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ
Sơn, Bắc Ninh - Thị Cầu, Dâu Keo ... và đặc biệt là hát dân ca quan họ
nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc như hội Lim, Đình
Bảng ...
-
Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành tỉnh Bắc
Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã Bắc Ninh ngày nay,
được xây dựng lại bằng đá ong và hiện diện vị thế của mình bằng cột cờ
cao 17m.
-
Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được đổi tên thành
tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức thành một cứ điểm trọng yếu
về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kinh tế vùng.
-
Năm 1938 thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của xứ Bắc Kỳ sau
các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Nam Định
và thị xã Hải Dương.
-
Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã Bắc
Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây
dựng chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
-
Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh
Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang
trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là
một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối
quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.
-
Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh và
Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 15 -
11 - 1996). Từ đó thị xã Bắc Ninh lại trở thành thị xã của tỉnh Bắc
Ninh mới.
Từ đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng bộ mặt đô thị hoá của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới:
Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xã Bắc Ninh.
Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn.
Đang hình thành và phát triển một số khu công nghiệp tập trung quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Võ.
Hệ
thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể nhất là QL 1A,
QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dải trên 350 km.
Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật cấp nước, cấp điện cũng được đầu tư đáng
kể.
Hệ
thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa nhất loạt đã
được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu quả thu hút khách du lịch
thập phương.
Ngoài
ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc Ninh cũng được
khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển
nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông Hồ, Đình Bảng, Đa Hội, Tương Giang,
Phù Khê, Nội Duệ...
Nơi sinh thành dân tộc và nên tảng văn hiến Việt Nam
Bắc Ninh ? Kinh Bắc xưa là vùng đất phía bắc của kinh thành Thăng Long ?
Đông Đô ? Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung tâm của châu thố sông
Hồng. Bắc Ninh còn là nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thuỷ,
bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở thành trung tâm kinh tế - văn hoá với một vị
trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam.
Qua
các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh
cho thấy, đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là bộ phận
cốt lõi của quốc gia Văn Lang ? Âu Lạc.
Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông
Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương,... sống
chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt
di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,...
bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng
Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,... mảnh khuôn đúc trống đồng trong
thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc
đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm,...
Cũng
trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua
các huyền thoại ?ông Đùng, bà Đùng?, ?ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch
rừng, băng ngang lũ?, về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh
Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ và thành cổ Loa,... Cùng với
huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ
Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân ? Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng
Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du,...đều được lưu giữ trong
lòng đất lòng người vùng quê xứ Bắc - Bắc Ninh. Đây chính là sự minh
chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ đị a
phương nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.
Trung tâm chống xâm lược và chống đồng hoá, bảo tồn phát triển văn hoá dân tộc.
Khu
di tích Luy Lâu rộng hàng trăm hécta với hệ thống các công trình thành
luỹ, đền chùa, phố xá, chợ, bến, kho tàng, dinh thự, các khu sản xuất
gạch ngói, các làng nông nghiệp, làng thợ, làng buôn, khu môn địa,...
còn là khu di tích thời Bắc thuộc lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Thủ
phủ Luy Lâu (tức Long Biên) là nơi ghi dấu những chiến tích hào hùng
chống quân xâm lược phương Bắc. Cho đến ngày nay, hệ thống các đền thờ
tướng lĩnh ở đây và những lễ hội mừng chiến thắng mùa xuân vẫn được duy
trì và tổ chức hàng năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh xưa
là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Không
những thế, qua các tài liệu thư tịch và di khảo cổ còn cho thấy Luy Lâu
đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại mang tính quốc tế: ?Trên
đất Giao Chỉ, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ
IX-X, Luy Lâu không nhường vai trò đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào?.
Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán
phát triển mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính buôn bán quốc tế,
các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá ở Luy Lâu thời Bắc thuộc rất
nhộn nhịp và sầm uất.
Cùng
với quá trình giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là quá trình tiếp
xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo giữa Việt Nam và các nước
trong khu vực mà trung tâm cũng vẫn là Luy Lâu. Tại đây, tư tưởng Nho
giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào nước ta. Bắc
Ninh với trung tân Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá
Hán ở Việt Nam.
Ngoài
ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người
Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là
chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản
khắc ?Cổ Châu Pháp Vân vật bán hanh? và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật
giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ
Pháp, rước nước đã chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam.
Giáo
sư sử học Trần Quốc Vượng đã nhận xét: ?Xứ Bắc với đô thị cổ Long Biên ?
Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi
hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và
Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa ? Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc
văn hoá Kinh Việt.
Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt Nam.
Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh trở thành phên dậu phía Bắc của kinh thành Đông Đô
? Thăng Long ? Hà Nội. Nơi đây tiếp tục giữ vai trò quan trọng đặc biệt
trong công cuộc bảo vệ đất nước và phát triển văn hoá Việt Nam.
Miền
quê ?địa linh? này là đất phatsb tích nhà Lý - triều đại khai mở ra nền
văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịc sử - văn
hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn
Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ ?Nam quốc sơn hà? - bản tuyên ngôn
độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Ngoài
ra nơi đây cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển, là vựa lúa của
đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có nhiều làng nghề nổi tiếng như tỉnh Bắc
Ninh: gốm sứ (Phù Lãng, Thổ Hà), gò đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa
Hội), chạm khắc (Phù Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đình Bảng), ?mộc Choã,
ngoã Viềng?, cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Đống Cao), tranh điệp (Đông
Hồ), dệt lụa (Tam Sơn, Cẩm Giàng),...
Người
Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay, tinh xảo, hoạt bát
trong giao thương, buôn bán và nhất là lại thông minh hiếu học. Ngoa
truyền dân gian về đất này quả là có cơ sở: ?Một giỏ sinh đồ, một bồ
tiến sỹ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn?. Đây là quê hương
của vị Trạng nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho
lịch sử khoa cử Việt Nam. Có vùng như huyện Đông Ngàn thông minh hơn
người (dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ), có làng như Tam Sơn -
địa phương duy nhất cả nước có đủ tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ)
trong đó có hai trạng nguyên.
Nơi
đây còn nổi tiếng với trung tâm phật giáo và những ngôi chùa có quy mô
to lớn, cổ kính, kiến trusc tạo tác rất công phu, tài nghệ như chùa Dâu,
chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp,... Đây
là những danh lam cổ tự nổi tiếng, ngày nay đã trở thành những di sản
kiến trúc tiêu biểu của dân tộc ta.
Nơi
đây còn được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ yếu là hội chùa,
hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn, nổi tiếng cả vùng và cả nước như
hội Gióng (9-4), hội Dâu (8-4), hội đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật
Tích...
Về
ăn mặc dân Kinh Bắc ưa sang trọng nhưng nền nã: nam khăn xếp, áo the, ô
lục soạn; nữ áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao. Xứ bắc có nhiều làng nghề
nghệ thuật như làng tranh Đông Hồ, làng hát ca trù Thanh Tương, làng
rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá, Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bảo,...và đặc biệt hơn cả
là hệ thống 49 làng chơi quan họ, một lối chơi, một sin hoạt văn hoá
tinh tường, độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà chỉ người
Bắc Ninh mới có.
Bước
vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đấu tranh vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã
hội, những giá trị của nền văn hoá Kinh Bắc vẫn được giữ gìn và phát
huy. Bắc Ninh nổi tiếng là vùng quê sớm có phong trào cách mạng, nơi sớm
ra đời các tổ chức tiền thân của Đảng, mảnh đất sinh thành và nuôi
dưỡng các vị tiền bối xuất sắc của Đảng như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ,
Hoàng Quốc Việt. Nơi đây cũng là quê hương của nhiều bậc tài danh trên
các lĩnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Vì từ xưa đến nay Bắc Ninh
vẫn luôn xứng danh là miền đất trù phú, kinh tế phát triển, là quê hương
của thi ca, mảnh đất mà văn hoá nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao của
dân tộc Việt Nam.
VĂN HOÁ
Bắc Ninh - Miền quê của những di sản lịch sử, văn hoá tiêu biểu
Tiến sỹ Trần Đình Luyện
Đến
bất cứ đâu trên mảnh đất Bắc Ninh - miền quê ''địa linh nhân kiệt" ?
nơi từ nghìn xưa cho đến hôm nay luôn là phên dậu phía Bắc của kinh
thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, cũng đầy ắp những kỉ niệm lịch sử
được kết tinh trong những di sản văn hoá tiêu biểu ở khắp các làng quê
của vùng đất này.
Bên
kia sông Đuống, trên đất Thuận Thành, uy nghiêm lăng mộ Kinh Dương
Vương, đền thờ Lạc Long Quân ? Âu Cơ tại làng Á Lữ - di tích thờ "Nam
bang thuỷ tổ" (ông tổ nước Nam). Thành cổ Luy Lâu ở xã Thanh Khương
(Dâu) với các di tích dinh thự, phố chợ, đền đài, chùa tháp nguy nga còn
lại của trung tâm chính trị, kinh tế thương mại, trung tâm Phật giáo và
Nho giáo của nước ta trong thiên niên kỷ đầu công nguyên.
Thuận
Thành còn là miền quê của nghệ thuật dân gian với làng tranh Đông Hồ,
làng ca trù Thanh Tương, múa rối nước Bùi Xá, kiến trúc Phật giáo nổi
tiếng cổ kính và mỹ lệ như Chùa Dâu, chùa Bút Tháp. Đây còn là quê hương
của nhiều thi nhân nổi tiếng như Nguyễn Gia Thiêu, Sái Thuận,...
Qua
Thuận Thành, tới Gia Bình ? nơi có ngọn Thiên Thai thơ mộng, quê hương
của ông trạng khai khoa Lê Văn Thịnh là một địa thắng nổi tiếng nên các
vua chúa đời trước đã dựng chùa Đông Lâm, chùa Tĩnh Lự trên đỉnh núi,
cung Long Phúc ở sườn non để thường xuyên về đây du ngoạn. Qua Thiên
Thai tới Lệ Chi Viên và dấu tích hành cung Đại Lai nơi xẩy ra vụ oan
nghiệt với Nguyễn Trãi-người anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá thế
giới. Từ Đại Lai sang chùa Đại Bi ? quê hương của nhà sư, thi sỹ nổi
tiếng Huyền Quang, một trong ba vị tổ của thiền phái Trúc Lâm thời Trần.
Xuống cửa Lục Đầu ? Bình Than vũ công lẫy lừng, vào thăm đền thờ và
lăng mộ Cao Lỗ Vương ở làng Đại Than và Tiểu Than quê hương của nhà quâ n
sự tài ba đã sáng chế r a nấy nỏ và kiến trúc kinh thành Cổ Loa, giúp
vua An Dương Vương bảo vệ nhà nước Âu Lạc.
Vượt
cầu Hồ hay từ Hà Nội ngược quốc lộ 1A qua sông Hồng, sông Đuống tới đất
Từ Sơn xưa, nay là các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Yên Phong, thị xã Bắc
Ninh và huyện Quế Võ. Hơn bất cứ đâu nơi đây đậm đặc di tích lịch sử và
sống động truyền thống văn hoá Việt Nam. Làng Đình Bảng, lăng Lý Bát Đế,
đền Cổ Pháp-nơi yên nghỉ và tôn thờ các vua Lý những bậc minh quân đã
khai mở một triều đại vàng son, xây dựng và phát triển nền văn minh Đại
Việt. Vùng đất này là địa bàn chủ yếu để thi triển các chính sách bảo vệ
và xây dựng đất nước, phát triển văn hoá Việt Nam của các triều đại với
nhiều thành tựu rực rỡ. Chiến tuyến Như Nguyệt, đền Xà, đền Y ên Phụ
(Yên Phong) còn âm vang lời tuyên ngôn trên dòng sôn g Cầu lịch sử "Nam
quố c sơn hà Nam đế cư..."(sông núi nước Nam vua Nam ở). Các chùa Phật
Tích, Tiêu Sơn, Bách Môn, Bách Môn, Cổ Pháp, Lãm Sơn (Dạm), Hàm Long,
các đình Đình Bảng, đình Diềm, đền Bà Chúa Kho, đình Hồi Quan, Cổ Mễ,
thành cổ Bắc Ninh,...là những danh lam cổ tự và những công trình kiến
trúc nghệ thuật vào bậc nhất của nước ta thời Lý-Trần-Lê. Tiêu biểu là
Văn Miếu Bắc Ninh, nơi tôn thờ trên 600 tiến sỹ quê hương Kinh Bắc-Bắc
Ninh, chiếm 1/3 các vị đại khoa Hán học cả nước, cho thấy Bắc Ninh là
vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến Việt Nam. Nền văn hiến ấy nẫy nở,
bảo tồn và phát triển trước hết ở các làng xã Bắc Ninh. Đa số làng quê ở
đất này được tôn vinh là "Mỹ tục khả phong", "địa linh nhân kiệt" bởi
có lịch sử lâu đời và trù phú với cá c hoạt động kinh tế, văn hoá vừa đa
dạng vừa sôi đ ộng. Nơi đây có các làng tiến sỹ như Kim Đôi, Tam Sơn,
Vĩnh Kiều,...các làng buôn nổi tiếng như Phù Lưu, Mai Động, Đình Bảng,
Lũng Giang,... và đông đảo các làng thợ; làm giấy gió Đống Cao, chạm
khắc gỗ Phù Khê, Kim Thiều, Đồng Kỵ; rèn sắt Đa Hội, sơn mài Đình Bảng,
đúc đồng Đại Bái, Quảng Bố, làm gốm Phù Lãng, dệt lụa Cẩm Giang, Tam
Sơn, Nội Duệ,...
Bắc
Ninh là vương quốc của lễ hội, quê hương của sinh hoạt văn hoá dân gian
đặc sắc và phát triển tới đỉnh cao. Hầu như làng nào cũng có lễ hội,
trong đó có nhiều lễ hội tiêu biểu cả vùng, cả nước như hội xem hoa mẫu
đơn chùa Phật Tích, hội rước pháo Đồng Kỵ, hội đền Lý Bát Đế, đền Bà
Chúa Kho, hội chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Hàm Long, hội đền Phả Lại,
hội giổ tổ Huyền Quang,...Nổi tiếng và thu hút là hội ca hát giao duyên
của các làng Quan Họ. Lễ hội và các hoạt động văn hoá của dân tộc Việt
Nam trên vùng đất Bắc Ninh ? Kinh Bắc: thông minh, cần cù, tài khéo,
năng động và tinh xảo trong hoạt động kinh tế, sáng tạo trong hoạt động
văn hoá nghệ thuật và bao trùm là đạo lí sống "uống nước nhớ ng uồn" ,
quý trọng cái tình , cái nghĩa, sự chung thuỷ trong quan hệ ứng xử giữa
người với người "bốn biển một nhà", "tình chung một khắc, nghĩa dài trăm
năm", tôn vinh tình yêu thương con người và sự mê say các hoạt động văn
hoá nghệ thuật. Vì vậy về với Bắc Ninh là về với quê hương của thi ca,
nhạc hoạ, về với cội nguồn dân tộc và văn hoá Việt Nam.
Ngày
nay trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, những di sản văn
hoá quý giá của quê hương Bắc Ninh ? Kinh Bắc đang được bảo tồn và phát
huy, góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hiến
Kinh Bắc.
Rạng rỡ một Bắc Ninh
Tuỳ bút - Băng Sơn
Bắc
Ninh nằm ở khoảng nào trong đất nước? Câu hỏi có vẻ kỳ cục, buồn cười
và hơi ngớ ngẩn. Xin thưa: Không đâu. Ai chẳng biết Bắc Ninh thuộc Kinh
Bắc ngày xưa, một trong tứ trấn quanh kinh thành Thăng Long về bốn phía:
Đông, Đoài, Nam, Bắc tức tỉnh Đông là Hồng Châu, Đoài là trấn Sơn Tây,
Nam là Sơn Nam và Bắc là Kinh Bắc. Có thời Kinh Bắc còn lên tít Bắc
Giang, Đồng Mỏ và ăn xuống Đông Ngàn, sát kinh thành. Cao Bá Quát sinh
ra vùng Keo Sủi vẫn là Kinh Bắc. Nguyễn Công Hoan, Tô Hiệu sinh ra nơi
Huê, nay thuộc Hưng Yên, nhưng ai chẳng biết câu ca:
Ai về Đồng Tỉnh Huê Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai.
Huê
Cầu chính là Xuân Cầu nằm ven đường quốc lộ số 5. Cụ Hạ Bá Cang tức nhà
cách mạng Hoàng Quốc Việt chính là người quê Đáp Cầu (chứ không phải
Xuân Cầu hay Huê Cầu), dòng họ Hạ Bá rải ra khắp nước và Đáp Cầu có nhà
máy kính đang cung cấp kính cho trăm nơi, ai nhìn xuyên ánh sáng ra
ngoài ngôi nhà, ngoài khu siêu thị, ngoài biệt thự lâu đài.... chắc là
kính Đáp Cầu góp phần, có mặt....
Hỏi
Bắc Ninh nằm ở đâu chính là muốn trả lời rằng Bắc Ninh không chỉ là một
vùng đất có sông Cầu, sông Đuống, có núi Phật Tích, Bách Môn, có chùa
Dạm, Tiên Sơn, có bánh Phu Thê Đình Bảng, có núi Thiên Thai, có những
con người nổi danh như Lê Quang Đạo của Đình Bảng, Hoàng Cầm của Thuận
Thành, Ngô Gia Tự của Tam Sơn, Nguyễn Văn Cừ của Phù Khê v.v... mà Bắc
Ninh là vùng nằm sâu thẳm trong lòng người cả nước.
Từ
vùng châu thổ sông Hồng qua thủ đô Hà Nội, kinh đô Thăng Long, ai muốn
lên biên cương phía Bắc, làm sao không qua Bắc Ninh mà được? Phi Khanh
đi đầy có qua đây? Ngô Thì Nhậm đi sứ phương Bắc có qua đây? Ông thi sĩ
tài hoa bất tử Nguyễn Du mang nàng Kiều về làm dâu đất Việt, Việt hoá
cho cô, cho cô tên Việt, tính Việt, vóc dáng Việt để đi vào triệu hồn
người Việt, có thể nào cáng võng, ngựa xe của ông lại không qua Bắc
Ninh, khi chính người sinh ra ông, vợ thứ của quan Tể tướng, thân phụ
ông là cô gái vùng Quan họ, cô gái Bắc Ninh trăm phần trăm, cô gái cho
ông dòng máu trữ tình thi sĩ. Và biết đâu, ông chẳng dừng chân, nâng
chiếc bầu rượ u nấu bằng nếp cái hoa vàng ủ bằng men la hừ ơi ơ cho tấm
lưng dài nằm cáng cưỡi ngựa nhiều ngày đỡ mỏi.
Đã
có bao nhiêu triệu người sống trong lòng một vùng Bắc Ninh mấy nghìn
năm nay, từ khi đây là bộ Vũ Ninh, có chú bé lên ba, chợt lớn lên thành
Thánh Gióng, đánh giặc, vung roi, tre gãy vụn ra khắp cánh đồng để đời
sau, tre có nẩy mầm, còn rải rác bao nhiêu khóm tre khắp cánh đồng Lang
Tài, Gia Bình, Thuận Thành, Tiên Sơn, núi Và, núi Bò.... cùng với vết
chân ngựa thành hồ ao, có hình tròn như con mắt của đất đai, chơm chớp
nhìn con cháu ngàn đời đang sống ra sao... đến nay ta vẫn bắt gặp nhiều
chiều.
Và
bao nhiêu triệu người qua đây từ bấy. Bao nhiêu sản vật núi rừng phải
vượt Bắc Ninh về với đồng bằng? Bao nhiêu vật phẩm của đồng bằng vượt
Bắc Ninh lên miền rừng núi? Bắc Ninh chứng kiến.
Chắc
chắn hàng nghìn năm con đường số một không to rộng, bằng phẳng như ngày
nay. Nó cong queo, uốn lượn, nó gập ghềnh khấp khểnh gồ ghề... nhưng
Bắc Ninh thì lan toả, bất chấp thời gian, mưa nắng, bão bùng....
Tại
sao cả nước chỉ có một vùng này là Quan họ? Tại sao có đến 49 mà không
phải là một, hay hai hoặc con số tượng trưng băm sáu? Có ai người Việt
lại không từng nghe một điệu la hừ, một làn Quan họ, cả người trong nước
và người xa xứ tha phương lênh đênh chìm nổi? Gốc cây đa, con bướm
lượn, cánh bèo dạt, đám mây trôi.... bình dị mà cao vời.... như khúc tre
thành cây đàn bầu, gióng trúc thành cây sáo, đoạn lồ ô thành khúc đàn
t'rưng, hòn đá thành cây đàn đá Khánh Sơn... người gái Quan họ, liền chị
Quan họ đã không là một đêm hội rồi tan, một canh rồi lặn, mà nó đã
đọng lại trong triệu hồn người, phải chăng nó đã là viên cát được cấy
vào lòng con trai đáy biển để rồi nó trở thàn h viên ngọc trai lấp lánh
bẩy sắc cầu vồng.
Những
bãi dài ngô, mía ven con sông Đuống, sông Cầu, con sông đã có nhiều cầu
nhưng ai qua Kinh Bắc hình như sóng vẫn vỗ ăm ắp lòng mình, con đò lãng
đãng tròng trành, mà chàng ca sĩ Trương Chi không bao giờ nguôi ngoai
trong tình sử, thuyền anh còn chìm trong khúc sông Tương nơi cuối làng
Đình Bảng, cạnh ngôi đình nguy nga hiếm hoi trên đất Bắc, cạnh bà Lụa
ghép cả tên con là Xuân thành bà Lụa Xuân, làm món bánh phu thê lừng
danh không ai sánh kịp. Đình Bảng còn đó, tình yêu còn kia, lòng ta đây
vẫn vang vọng câu:
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu hát thì thậm hay
Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây
Con quan Thừa Tướng ngày rày cấm cung....
Lời
ca đúng là từ Việt cổ, cách nói hoàn toàn Việt, nên ai bảo rằng anh
Trương Chi là người Tầu trong chuyện của Tầu thì mặc họ, ta bảo đó là
chàng trai Kinh Bắc, Bắc Ninh, cùng với câu ca của thiên tài âm nhạc Văn
Cao:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền ta ca
Trái đất còn riêng ta...
và:
Trách ai khinh nghèo quên nhau
Đôi lứa bên giang đầu....
Nhà
thơ Vũ Hoàng Chương nổi tiếng một thời, lời lời châu ngọc, sống ở Hà
Nội nhưng có cơ sở ở làng Diềm, cao hứng, ông lại đáp tầu lên Bắc Ninh,
Phủ Lạng Thương, ghé xuống ga, vào đây để thâu đêm Quan họ, đứng tình
cho thơ đẹp mộng đời....
Lò
gốm Phù Lãng đang tắt. Nhưng bao đời, bao nhiêu triệu nấm mồ được cải
táng, cát táng, thay áo mới, sang nhà mới.... vào dịp cuối năm, phải nhờ
đến chiếc tiểu sành màu gan gà, rắn hơn đá, bền hơn thời gian để đặt
vào bộ mới (có cả tiểu của Thổ Hà, tuy là Bắc Giang nhưng nằm kề ngay
bên bờ sông Cầu, chỉ một lá đò ngang đã xoá nhoà biên giới hai vùng của
một Kinh Bắc chung nhau...)
Ai
làm tương, đặt chum tương nơi gốc cau, gốc mít, ai có chiếc hũ đựng
vừng đựng lạc trong buồng, ai có chục bát sành loe miệng.... Phù Lãng là
hồn nó đấy.
Đã
bao nhiêu trăm phiên chợ tết làng quê phố huyện, cả chợ tết thị thành,
những tờ tranh Đông Hồ được bày ngay trên nền đất chợ, lấy hòn gạch hòn
đá đè lên cho gió khỏi bay: tranh Hứng dừa hớ hênh trắng nõn, tranh Đánh
nghen nắc nẻ nhịp cười. Tranh đám cưới chuột mèo chuột biếu xén bịt mõm
nhau, tranh Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc, tranh Gà tranh Lợn, ngữ
sắc hay, xoáy âm dương.... Tranh ấy đã đi về đâu? đã in vào tâm khảm
hàng trăm thế hệ, cả ông nghè đến thi sĩ, cả cậu bé đẻ tóc trái đào đến
cô gái nữ trinh xem mà rúc rích đỏ đôi má trẻ... Tiếc sao nay Đông Hồ
hưu hắt thời gian, ván khắc nhện chăng, tro lá tre. vỏ con điệp, quả
dành dành để mốc.... Một nỗi buồn như se se heo may làm tâm tư thổn thức
như mất một tình yêu không bao giờ còn gặp lại.
Bắc Ninh ở đâu, về đâu?
Bắc
Ninh đâu chỉ là quê hương đứa trẻ thiếu cha nhưng trở thành ông vua
khai sáng một chiều đại huy hoàng. Lý Công Uẩn trở thành Thái Tổ nhà Lý?
Công của Bắc Ninh phổ vào tâm hồn nhà sư Vạn Hạnh và Khánh Vân chăng?
Cũng chính chàng trai này được vợ ông vua đời trước dâng áo hoàng bào.
Mục đích là đánh giặc ngoại xâm đang ngấp nghé chốn biên thuỳ. Và ai
khác đều không phải cũng chính ông mở con đường cho thành đại La trở lên
Thăng Long sắp vào nghìn tuổi?
Gần
nghìn năm sau, nơi thờ tám vị vua nếu không nói cả Vua Bà Lý Chiêu
Hoàng là 9, có một nhà giáo nhân dân, lại cũng là người được phong anh
hùng lao động, ông Nguyễn Đức Thìn, hàng ngày nhang khói cho cả nước
cùng hướng về chiêm bái, khiến cả mây trên tròi cao cũng đi liền tám
khối thành "Bát đế vân du" một điềm báo đẹp.
Bắc
Ninh đồng bằng, nhưng đột khởi núi non. Ai đã qua Gia Bình, lên núi
Thiên Thai, ngọn núi đã vào Quan Trèo lên đỉnh núi Thiên Thai.... mà
nghe gió sông Đuống quạt lên, mà nghe mây trời đậu vào hàng thông vi
vút.... mà nơi chân núi không cao không thấp ấy, còn có ngôi miếu nhỏ.
Nhỏ lắm, nhưng vào hồn người thì lại rộng bao la. đó là nơi ông Trạng
nguyên đầu tiên, Trạng nguyên khai khoa đời Lý, Lê Văn Thịnh, người trí
thức mở đường khoa cử gần nghìn năm trước.... được phụng thờ, với hình
tượng một con rồng bằng đá, không duỗi thẳng thân mình mà bay, mà trườn
mà bò... ngược lại, tự oằn oại thân mình, quay lưng lại, tự cắn vào thân
mình như muốn nói nỗi oan khiên này ai sáng tỏ?
Đây
có phải là con rồng duy nhất trên cả nước có hình thù đặc biệt như thế
không, khi mọi văn miếu, mọi cổ thành, mọi cung điện, đền đài... các
con rồng dù 4 hay 5 móng, đều uốn dài những khúc lưng mà không con nào
co quắp?
Có
ai không biết người con gái tựa vào gốc cây hoa lan mà trở thành nguyên
phi, hoàng thái hậu? Có ai không biết ngôi chùa Bút Tháp, có tháp cao
bằng đá, có hình tượng phồn thực Linga, có cầu quán, từng là nơi được
dựng để ghi nhớ thời kỳ thịnh hành đạo Phật Việt Nam, cùng với chùa Dâu
Thuận Thành, có tháp vuông rỗng ruột Hoà Phong, 7 tầng, nhưng bão tố làm
hư hại chỉ còn ba, nhưng đồ sộ, hiên ngang, thách thức với thời gian,
chẳng khác nào sân chùa còn khuôn giếng thơi, nước soi trời trong vắt,
hẳn là chiếc gương để sửa tóc vấn khăn của nàng trinh nữ Ỷ Lan trở thành
hoàng hậu và cũng là người xây dựng bao nhiêu chùa tháp Bắc Ninh, mà
người đời phải công nhận rằng: Đình Đoài, chùa Bắc, nghĩa l à vùng trấn
Sơn Tây phía đoài thì đình to đẹp nổi tiếng, nhưng nói đến chùa thì
không nơi đâu bằng Bắc Ninh, Kinh Bắc, xem kia, chùa Tiêu, chùa Dạm,
chùa Phật Tích, chùa Dâu, chùa Trăm Cửa, chùa Lim...
Làng
Đại Bái là đâu, đó chính là làng mang tên nôm làng Bưởi, có nghề đúc
nồi đồng điếu, gò nồi đồng thau mà có tên là làng Bưởi Nồi. Bao nhiêu
nghệ nhân được phong bàn tay vàng hay không được phong vì thời xưa chưa
có, ông Nguyễn Đức Chỉnh đang rời làng Bưởi Nồi về sống ở Hà Nội là một.
Nghề đúc có từ bao giờ. Mấy làng của Bắc Ninh rời về Thăng Long lập ra
làng Ngũ Xã? Pho tượng Trấn Vũ còn đây? Kinh thành Huế cũng có nghề đúc,
có lần thấy những chiếc vạc đồng nằm nghiêng ngả giữa sân rêu, lòng vạc
có lá vàng rụng với bèo tấm hoang vu.... mà chạnh lòng nhớ về phường
thợ đúc đã tiêu tan, phường đúc Huế và phường đúc Đại Bái có đồng môn?
Không biết, nhưng Bắc Ninh hiện hình q ua bao nhiêu bát nhang bằng đồng,
những chân nến, những đỉnh đồng, lư đầu, những âu trầu cho các bà các
mẹ bao thời ăn trầu, những lồng ấp đựng than hồng sưởi chân mệnh phụ,
tiểu thư.... Bắc Ninh tung đàn con của mình vào đất nước, hào phóng khác
gì tình mẹ...
Hỏi
Bắc Ninh ở đâu, không còn là buồn cười, ngớ ngẩn. Bắc Ninh nằm trong cả
nước, Bắc Ninh đọng giữa muôn hồn. Bắc Ninh trở thành cái nôi Quan họ,
thành niềm say đắm dân gian cho thơ cho nhạc cho hoạ cho tình cho
nghĩa....
Vật
đổi sao rời.... Văn Miếu Bắc Ninh đang được tu chỉnh. đã có nhiều khu
ruộng bỏ lúa trồng hoa đào, Tết của cả nước, Bắc Ninh cũng đang góp thêm
phần tươi thắm....
Có một Bắc Ninh rộng mênh mông là thế. Tự hào lắm chứ !.
Dân cư – lao động:
Theo
số liệu thống kê mới nhất năm 2010, Bắc ninh có 1.038.229 người . Trong
đó dân cư nông thôn chiếm trên 74,1%, dân số thành thị chiếm 25,9%.
Thành phần dân số này có xu hướng chuyển dịch theo cơ cấu tăng dân số
thành thị và giảm dần số nông thôn.
Dân
số Bắc Ninh là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động. Với chất
lượng ngày càng được nâng cao đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng lao
động hùng hậu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế -
văn hoá - xã hội của tỉnh.
Giao thông:
Bắc
Ninh là tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải.
Mạng lưới giao thông bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thuỷ đã được
hình thành từ lâu. Hơn nữa, đây là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội, trong khu
vực tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nôi - Hải Phòng - Quảng Ninh nên được
Chính phủ quan tâm đầu tư cho phát triển các tuyến đường huyết mạch.
Quốc lộ 1, quốc lộ 18, quốc lộ 38 và tuyến đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh -
Lạng Sơn. Trong khi đó hệ thống các tuyến đường trong nội tỉnh được
nâng cấp và xây dựng mới, đặt biệt phong trào xây dựng đường giao thông
nông thôn với phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm đã góp phần tích
cực vào việc mở rộng thông thương, khai thác tiềm năng của tỉnh, rút
ngắn “khoảng cách” giữa Bắc Ninh với các tỉnh trong vùng, giữa thành thị
và nông thôn. Tính đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 375 km đường quốc
lội trải nhựa. 290 km đường tỉnh lội phần lớn được trải nhựa và hơn 3000
km đường huyện, đường xã, đường thôn xóm trong đó có gần 2000km được
trải bê tông và lát gạch.
Bưu chính - viễn thông:
Trong
thời kỳ bùng nổ của công nghệ thông tinh, bưu chính - viễn thông luôn
được coi là một ngành đặc biệt quan trọng góp phần tích cực trong tăng
trưởng kinh tế của vùng, khu vực và quốc gia. Vì vậy, Nhà nước nói chung
và tỉnh Bắc Ninh nói riêng đã tập trung nguồn lực cho lĩnh vực này theo
hướng đi tắt, đón đầu, ứng dựng công nghệ tiên tiến hiện đại tạo nên sự
thay đổi rõ rệt cả về chất và lượng. Những năm đầu tái lập, toàn tỉnh
chỉ có duy nhất một đơn vị hoạt động bưu chính viễn thông là Bưu điện
tỉnh, đến nay đã có thêm 3 đơn vị khác hoạt động trong lĩnh vực này.
Mạng
lưới bưu chính viễn thông đã thay đổi căn bản từ hệ analog lạc hậu sang
hệ digital hiện đại. Mạng thông tin di động và Internet tuy mới xuất
hiện nhưng đã phát triển rất nhanh. Bắc Ninh là tỉnh xếp thứ 10/63 tỉnh
thành của cả nước về mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin năm
2009. Toàn tỉnh ước có 35.000 máy vi tính, 52 mạng Lan; mạng diện rộng
(WAN) của tỉnh được thiết lập kết nối các sở, ban, ngành, địa phương với
Trung tâm tích hợp dữ liệu tỉnh. Hoạt động của các mạng công nghệ thông
tin đã góp phần đáng kể trong công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành
chính của các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Giáo dục – Đào tạo:
Bắc
Ninh, miền đất sinh thành vị tổ của nền khoa bảng Việt Nam, nơi có làng
Tam Sơn ( xã Tam Sơn - Từ Sơn), địa phương duy nhất trong cả nước có đủ
tam khôi với 22 vị tiến sĩ trong đó có 2 trạng nguyên. Truyền thống
hiếu học đất Kinh Bắc năm xưa đã và đang được lớp lớp con cháu kế thừa
và phát huy. Bắc Ninh là một trong 3 tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học đầu tiên trong cả nước vào năm 2000, đến năm 2002 đã hoàn thành
phổ cập trung học cơ sở và đang tiến hành phổ cập trung học phổ thông.
Mạng lưới trường học ở tất cả các bậc học từ mầm non, phổ thông phát
triển đều khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Cơ sở vật chất, đội
ngũ giáo viên trong các trường ngày càng được củng cố về chất lượng và
phát triển về số lượng theo hướng chuẩn hoá. Tính đến nay toàn tỉnh đã
có hơn 200 trường ở các ngành học, bậc học được công nhận là trường
chuẩn Quốc gia. Theo đó chất lượng giáo dục cũng từng bước được nâng
cao. Bắc Ninh là một trong những tỉnh có tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp
các cấp cao so với cả nước. Đặc biệt, Bắc Ninh luôn được xếp vào nhóm 10
tỉnh có tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng cao nhất
trong cả nước. Đi liền với các thành tích trên, công tác xã hội hoá
giáo dục được đẩy mạnh và phát triển bằng các hoạt động thiết thức thông
qua các trung tâm giáo dục cộng đồng, các hội khuyến học từ tỉnh, huyện
đến các thôn làng, dòng họ đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của
giáo dục tỉnh nhà.
Y tế - Sức khoẻ:
Công
tác y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân luôn luôn được tỉnh đặc biệt
chú trọng, Thể hiện ở mạng lưới các bệnh viện, phòng khám đã khoa khu
vực rải đều khắp các huyện/thị, 100% các xã/phường thị trấn có trạm y
tế, Cơ sở vật chất và đội ngũ y sỹ, bác sỹ tăng dần qua các năm. Số
giường bệnh trong toàn tỉnh 2.340; số cán bộ công tác ở ngành y là 3.249
người; trong đó tiến sỹ, thạc sỹ là 55 người, bác sỹ là 650 người. Năm 2010 đã thực hiện tiêm chủng cho 21.718 trẻ em trên toàn tỉnh.
Những
thành tựu về kinh tế, văn hoá xã hội, các kinh nghiệm tích luỹ được
trong hơn 10 năm đổi mới cùng với truyền thống cách mạng, năng động sáng
tạo, truyền thống hiếu học, những ưu đãi của thiên nhiên và nét văn hoá
đặc sắc của người dân Kinh Bắc là nguồn tài sản quý báu của tỉnh Bắc
Ninh, tạo cơ sở vững chắc để hội nhập và phát triển
TIỀM NĂNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2011-2016
Bắc
Ninh là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, là tỉnh tiếp giáp và cách Thủ
đô Hà Nội 30km: Cách sân bay Quốc tế Nội Bài 45km; cách cảng biển Hải
Phòng 110km. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng:
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; gần các khu, cụm công nghiệp lớn của
vùng trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh có các tuyến trục giao thông lớn, quan
trọng chạy qua; nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, văn hoá và
thương mại của phía Bắc: đường quốc lộ 1A-1B, quốc lộ 18 (Thành phố Hạ
Long - sây bay Quốc tế Nội Bài), quốc lộ 38, đường sắt xuyên Việt đi
Trung Quốc. Trong tỉnh có nhiều sông lớn nối Bắc Ninh với các tỉnh lân
cận và cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân. Vị trí địa lý của tỉnh Bắc Ninh là
một trong những thuận lợi để giao lưu, trao đổi với bên ngoài, tạo ra
nhiều cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và khai thác
các tiềm năng hiện có của tỉnh. Con người Bắc Ninh mang trong mình
truyền thống văn hoá, hiếu khách, cần cù và sáng tạo, với những bàn tay
khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ,
đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian... đặc biệt là
những làn điệu dân ca quan họ trữ tình nổi tiếng trong và ngoài nước.
Trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện có 16 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học
dạy nghề và nhiều cơ sở giáo dục có quy mô lớn, chất lượng khá. Trong
tỉnh hiện có hơn 650.000 lao động trong đó đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật, công nhân lành nghề phát triển khá nhanh phù hợp với nền kinh tế
mở cửa. Đội ngũ lao động trong tỉnh có khả năng tham gia hợp tác lao
động quốc tế, đồng thời cũng là cơ hội cho các nhà đầu tư khai thác lao
động khi đến Bắc Ninh đầu tư.
Tổng
sản phẩm (GDP) tăng bình quân 15,1%/năm, trong đó công nghiệp- xây dựng
tăng 18,3%, dịch vụ tăng 19,1%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 1,2%. Đây là mức tăng trưởng bình quân cao nhất trong các kỳ thực
hiện kế hoạch 5 năm từ khi tái lập tỉnh tới nay. Năm 2010, GDP bình quân
đầu người đạt 1.800USD vượt 38% mục tiêu Đại hội. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2010 ước đạt 20,4 triệu đồng, trong đó nông thôn 16,4
triệu đồng.
Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng của ngành công nghiệp, xây dựng năm 2010 ước đạt 64,8%,
dịch vụ 24,2%, nông nghiệp đạt 11%. Đầu tư cho phát triển được đẩy mạnh,
góp phần tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội trong 5 năm ước thực hiện đạt trên 64.000 tỷ đồng, tăng bình
quân 33,6%, hàng năm đều đạt trên 50% GDP. Công nghiệp Bắc Ninh từ vị
trí thứ 19 (2004) vượt lên vị trí thứ 9 trong toàn quốc. Tổng kim ngạch
xuất khẩu đạt 1,250 tỷ USD, tăng bình quân 67,2%/năm. Năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh đứng thứ 10 toàn quốc và là một trong ba tỉnh dẫn đầu
miền Bắc. Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, góp phần quảng bá
hình ảnh Bắc Ninh, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đứng thứ 7 trong
toàn quốc, thứ 2 trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Với
những kết quả hoàn thành và hoàn thành vượt mức hầu hết các chỉ tiêu,
trong 5 năm tới, Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh tiếp tục: Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, Tăng cường quốc phòng, an ninh. Tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Phát triển công nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững. Xây dựng
nông thôn mới; nâng cao chất lượng nguồn lực và an sinh xã hội. Phấn
đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại
và thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020.
1.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 13-14%; trong đó công
nghiệp và xây dựng tăng bình quân 15-16%, dịch vụ tăng 13,5-14,5%, nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 1,7-2%. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản khoảng 6,2%, công nghiệp và xây dựng 69,4%, dịch vụ 24,4%. GDP bình
quân đầu người đạt 3.500 USD (giá thực tế).
2.Giá
trị sản xuất công nghiệp 60.000 tỷ đồng; nông nghiệp 2.800 tỷ đồng;
phấn đấu đến năm 2015 số xã đạt tiêu chí nông thôn mới là 50%.
3.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 26,2%, đến năm 2015 tổng
kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD; nhập khẩu tăng bình quân hàng năm
24,9%, đạt 3,5 tỷ USD.
4.
Thu ngân sách trên địa bàn đạt 8.500 tỷ đồng, tăng bình quân 13,6%/năm,
trong đó thu nội địa tăng bình quân 19,3%/năm; vốn đầu tư xã hội hàng
năm đạt 45-50% GDP.
5.
Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, thực hiện giảm nghèo. Bảo
tồn và tôn tạo các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; tỷ lệ thất
nghiệp thành thị còn 3,2%; tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70%;
duy trì mức giảm sinh hàng năm 0,2- 0,3%o, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
1,1%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 10%; tỷ lệ hộ
nghèo giảm bình quân 2%/năm, phấn đấu đến năm 2015 còn 2,2% (theo tiêu
chí mới).
6.
Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo: 100% các phòng học
được kiên cố hóa; phấn đấu 69% trường mầm non, 100% trường tiểu học,
78,3% trường trung học cơ sở và 69,5% trường trung học phổ thông đạt
chuẩn quốc gia; 100% trạm y tế cấp xã được kiên cố hóa. Đạt 140 thuê bao
điện thoại/100 dân, 78 thuê bao Internet/100 dân (đã quy đổi).
7.
Bảo vệ và giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường; trên 98% dân
số được sử dụng nước hợp vệ sinh; thu gom 100% và xử lý 70% rác thải
sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế.
8.
Phát triển nguồn nhân lực, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 60%, trong đó
nông thôn 45%; giải quyết việc làm bình quân hàng năm 26-27 nghìn lao
động. Chăm sóc, nâng cao sức khoẻ và mức sống của nhân dân. Thu nhập
bình quân đầu người đạt 50 triệu đồng/năm, trong đó khu vực nông thôn là
36 triệu đồng/năm.
9.
Thực hiện tốt công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh
thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX).
10.
Tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Nâng cao chất lượng
công tác giáo dục chính trị tư tưởng; phấn đấu có 85% tổ chức cơ sở đảng
đạt trong sạch vững mạnh, không có cơ sở đảng yếu kém, 85% đảng viên đủ
tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát và công tác dân vận của Đảng; xây dựng chính quyền vững mạnh,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đẩy lùi
tệ quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm; nâng cao hơn nữa hiệu quả
cải cách hành chính, cải thiện quan hệ của cơ quan hành chính với dân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét