- Diện tích: 71 km2
- Dân số: 213.639
- Ðơn vị hành chính: TP Hải Dương hiện có :
15 phường:
Bình
Hàn; Cẩm Thượng; Hải Tân; Lê Thanh Nghị; Nhị Châu; Ngọc Châu; Nguyễn
Trãi; Phạm Ngũ Lão; Quang Trung; Tân Bình; Thanh Bình; Trần Hưng Đạo;
Trần Phú; Tứ Minh; Việt Hòa.
Và 6 xã
Ái Quốc, An Châu, Nam Đồng, Tân Hưng, Thạch Khôi, Thượng Đạt
- Cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng; dịch vụ; nông nghiệp - thuỷ sản
+ Năm 1997: 47% - 45% - 8%
+ Năm 2002: 44,2% - 50,9% - 4,9%
+ Năm 2005: 50,5% - 46% - 3,5%
Giới thiệu chung: Thành phố Hải Dương là thành phố đạt tiêu chuẩn đô thị loại loại 2 thuộc , là Trung tâm công nghiệp - dịch vụ thuộc
Một góc thành phố Hải Dương
Lịch sử: Thành phố Hải Dương được khởi lập từ năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông.
Trước
năm 1804, Lỵ sở Hải Dương được đặt tại Lạc Thiên (Chí Linh), lúc ấy gọi
là thành Vạn hay doanh Vạn. Sau đó rời về Mao Điền (Cẩm Giàng).
Năm
1804 (năm Gia Long thứ ba), để củng cố bộ máy cai trị, nhà Nguyễn đã
phân chia lại địa giới hành chính của cả nước, do vậy Lỵ sở Hải Dương đã
được rời từ Mao Điền về vùng ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt, thuộc
địa phận ba xã Hàn Giang, Hàn Thượng và Bình Lao. Tỉnh lỵ mới cách Kinh
đô Huế 1.097 dặm. Tổng đốc Trần Công Hiến là người khởi công xây dựng
thành, gọi là Thành Đông, với mục tiêu vừa là trấn thành, vừa án ngữ
phía đông Kinh thành Thăng Long. Trong thành không có dân, chỉ có quan
lại và quân lính.
Năm
1866 (năm Tự Đức thứ 19), Đông Kiều phố được hình thành (Phường Trần
Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo ngày nay), nhiều phố nghề ra đời
như Hàng Giày (Sơn Hòa ngày nay), Hàng Đồng (Đồng Xuân), Hàng Bạc (Xuân
Đài), Hàng Lọng (Tuy An).
Năm 1889, Thành Đông bị thực dân Pháp phá bỏ để lấy mặt bằng xây dựng Nhà máy Rượu và vài tòa dinh thự của người Pháp.
Năm
1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương.
Không gian thành phố được chia thành hai khu vực: khu hành chính - nằm
ven sông Sặt và khu kinh tế - từ Nhà máy Rượu đến Nhà ga xe lửa. Các
công sở và dinh thự của quan chức người Pháp được tập trung ven sông
Sặt. Một số tòa dinh thự mang kiến trúc Pháp hiện nay vẫn còn được sử
dụng như dinh Công sứ (nhà làm việc và nhà khách Tỉnh ủy); Sở Lục bộ (Sở
Giao thông); nhà Séc-tây (Sở Thể dục- Thể thao cũ), Kho bạc (Ngân hàng
Chính sách xã hội tỉnh), dinh Phó sứ (Sở Văn hóa - Thể thao & du
lịch)... Với vị trí thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế, văn
hóa; thành phố Hải Dương đã trở thành một trong 4 thành phố quan trọng
nhất của Bắc Kỳ (cùng TP Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định).
Tháng 3 năm 1947, nhà cầm quyền Pháp chia thành phố Hải Dương thành 2 quận, rồi sau đó một thời gian lại chuyển thành thị xã.
Ngày
30-10-1954, thị xã Hải Dương được giải phóng hoàn toàn. Sau khi giải
phóng, thị xã được chia làm 3 khu phố: Bắc Sơn, Bạch Đằng và Chi Lăng;
mỗi khu phố có một số đường phố và xóm nhỏ. Năm 1959, thị xã được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị với quy mô dân số từ 40.000 đến 50.000 người.
Từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng.
Năm
1969, thị xã Hải Dương được mở rộng, sáp nhập thêm các xã Ngọc Châu
(Nam Sách), Thanh Bình, Tứ Minh, Việt Hòa (Cẩm Giàng), Hải Tân (Gia
Lộc).
Năm 1981, các phường Trần Phú, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão được thành lập.
Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, trở lại là tỉnh lị tỉnh Hải Dương.
Năm
1996, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP thành lập các phường Thanh
Bình, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Bình Hàn và tách một số khu dân cư
của phường Trần Phú để thành lập phường Lê Thanh Nghị.
Ngày
6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 88/CP thành lập thành
phố Hải Dương và là đô thị loại III với 11 phường, 2 xã.
Ngày
1 tháng 7 năm 2008, thành phố sáp nhập thêm các xã Nam Đồng, An Châu,
Ái Quốc, Thượng Đạt (Nam Sách), 38 ha của thị trấn Lai Cách (Cẩm Giàng),
các xã Tân Hưng, Thạch Khôi (Gia Lộc) và một phần thôn Ngọc Lặc, xã
Ngọc Sơn (Tứ Kỳ). Như vậy, sau khi được điều chỉnh địa giới hành chính
thành phố có 19 phường, xã (13 phường, 6 xã).
Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố có quyết định trở thành đô thị loại 2.
Ngày
23 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh
địa giới hành chính phường và thành lập các phường Nhị Châu và Tân Bình
thuộc TP Hải Dương
Sự kiện:
Trong tháng 10 năm 2009 (Ngày 30/10), thành phố Hải Dương đón nhận các
sự kiện lớn như: Kỷ niệm 205 năm thành lập Thành Đông, 55 giải phóng
thành phố Hải Dương, Lễ công bố quyết định thành phố Hải Dương trở thành
đô thị loại II; và từ 30 tháng 10 đến 08 tháng 11-2009, thành phố Hải
Dương đồng đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3
(Asian Indoor Games III) tại Việt Nam.
Kinh tế: Thành phố Hải Dương là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ của tỉnh. Năm
2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 14,5%. Cơ cấu kinh
tế: Công nghiệp - Xây dựng 53,07%, Dịch vụ 45,68%, Nông nghiệp - Thuỷ
sản 1,25%. Trên địa bàn thành phố, Chính phủ đã phê duyệt các khu công
nghiệp, thu hút 1.247 doanh nghiệp hoạt động.
Năm
2008, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng ước đạt hơn 1.346 tỷ
đồng, tăng 52% so với năm 2007. Cũng năm này, thành phố có 1.700 doanh
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có hơn 900 doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người một năm đạt 1.344
Usd/người Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp
trên địa bàn TP Hải Dương đạt hơn 676 tỷ đồng, bằng 50,8% kế hoạch năm
và tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, kinh tế tập thể đạt hơn
11 tỷ đồng, bằng 50,3% kế hoạch năm; doanh nghiệp tư nhân gần 124 tỷ
đồng, bằng 49,7%; công ty trách nhiệm hữu hạn hơn 238 tỷ đồng, bằng
50,8%; công ty cổ phần hơn 206 tỷ đồng, bằng 50,9%; hộ cá thể, gần 98 tỷ
đồng, bằng 48,7% kế hoạch năm. Thành phố hiện có gần 2.000 doanh nghiệp
hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có gần 1.000 doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp.
Thành phố Hải Dương là một trong những trung tâm về công nghiệp của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
Du lịch
Địa điểm tham quan, giải trí
- Công viên Bạch Đằng
- Quảng trường Độc Lập (Ngã 5 Bách hóa Tổng Hợp)
- Quảng trường 30 tháng 10 (ĐTM Tây Hải Dương)
- Khu sinh thái Hà Hải.
- Nước khoáng nóng Thạch Khôi.
- Các tuyến phố thương mại
Di tích lịch sử
Thành
Hải Dương: Thành được xây từ năm 1804, đặt tại tổng Hàn Giang (nay là
thành phố Hải Dương), nhằm bảo vệ Lị sở Hải Dương sau khi được chuyển từ
Mao Điền về.
Thành
có hình 6 cạnh, chu vi 551 trượng 6 thước, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc,
mở 4 cửa. Ban đầu thành được đắp bằng đất, đến năm 1824 (năm Minh Mạng
thứ 5), thành được xây thêm bằng đá ong (kiểu xây này cũng được thấy ở
thành Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An), có sống khế. Năm Tự Đức thứ 19
(1865), đắp thêm thành Dương Mã ở các cửa, hình chóp nón úp vào hào
trước cửa thành, cao 5 thước 4 tấc, hào rộng 3 trượng 3 thước, sâu 6
thước.
Thành
đã bị phá hủy trong chiến sự 1946-54, ngày nay vẫn còn sót lại một số
ít đoạn tường thành và dinh Tổng Đốc ở trụ sở của Mặt trận Tổ quốc tỉnh
Hải Dương.
TP Hải Dương: Vị thế mới để phát huy tiềm năng
|
|
Những
năm qua, hàng loạt các công trình kiến trúc lớn, các KCN, khu dân cư
mới, các công trình hạ tầng kỹ thuật, xã hội liên tục phát triển mang
lại diện mạo mới cho TP như khách sạn NACIMEX, phố chợ Hội Đô, quảng
trường 30/10, trụ sở các ngân hàng Vietcombank, Sacombank, một số khu
sinh thái, các công trình thể thao, vui chơi giải trí có quy mô lớn…
Đặc
biệt, việc đầu tư xây dựng hàng loạt các khu đô thị mới như khu Đông -
Tây, khu Tuệ Tĩnh, dân cư mới Kim Lai, Đông Ngô Quyền… không chỉ tăng
nhanh quỹ nhà ở mà còn nâng cao mỹ quan đô thị của TP theo quy hoạch
hiện đại. Hệ thống công viên cây xanh ngày càng được mở rộng. Hệ thống
điện, nước sạch sinh hoạt cũng như những công trình xử lý nước thải, rác
thải cũng được quan tâm đầu tư đúng mức…
Vóc dáng hiện đại của cửa ngõ phía Tây TP Hải Dương
Sự
phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng về không gian và kết cấu hạ tầng đô thị
đã tạo ra động lực to lớn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của TP Hải
Dương đóng góp tỉ trọng lớn trong GDP chung của tỉnh với mức tăng trưởng
kinh tế trong nhiều năm liền đều đạt bình quân hơn 14%/năm, nằm trong
tốp các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực. Riêng trong
năm 2008, tổng giá trị sản phẩm của TP đạt hơn 43 nghìn tỉ đồng. Trong
cơ cấu kinh tế chung của TP, công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
Hiện
tại, ngành công nghiệp - xây dựng đã chiếm tỷ lệ 55,5%; thương mại dịch
vụ 40,3%; nông nghiệp thuỷ sản chỉ còn 4,2%. Thu nhập thực tế của người
dân không ngừng tăng nhanh, đến năm 2008 đã đạt hơn 1.300
USD/người/năm. TP đã quy hoạch xây dựng được 30 điểm chợ, siêu thị,
trung tâm thương mại với 5.800 hộ kinh doanh.
Là
địa phương nằm trong quần thể nhiều điểm du lịch sinh thái, di tích
lịch sử văn hoá nổi tiếng trong cả nước, chỉ riêng trong năm 2008 TP Hải
Dương đã thu hút được hơn 1,5 triệu lượt khách. Kinh tế phát triển, đời
sống văn hoá, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện. Hệ
thống trường học, bệnh viện được đầu tư nâng cấp. Đến nay, 100% trường
lớp, phòng học được xây dựng kiên cố. Gần 20 trường học các cấp đạt
chuẩn quốc gia giai đoạn 1, nhiều trường đang tiếp tục phấn đấu đạt
chuẩn giai đoạn 2. Trên địa bàn TP hiện có 2 trường đại học cấp vùng. TP
vừa có thêm trường đại học Thành Đông, bắt đầu tuyển sinh từ năm học
2009 - 2010.
Đặc
biệt hệ thống chăm sóc y tế, bệnh viện của TP Hải Dương được đánh giá
quy mô hiện đại, xứng tầm khu vực với 6 bệnh viện lớn như Viện Quân y 7,
BV Y học cổ truyền, Viện Lao... BV Đa khoa tỉnh cũng vừa được đầu tư để
nâng quy mô lên 1.000 giường bệnh trở thành BV loại 1 cấp vùng. 100%
trạm y tế xã, phường đã có y bác sĩ với đầy đủ phương tiện, trang thiết
bị phục vụ cho việc khám chữa bệnh. Trong đó có 8 trạm y tế phường, xã
được công nhận đơn vị đạt chuẩn quốc gia về y tế…
Cùng
với hệ thống các công trình vui chơi, giải trí như nhà hát, rạp chiếu
phim, bảo tàng, thư viện, cung thiếu nhi, sân vận động, các công viên
cây xanh… người dân TP Hải Dương đang được hưởng thụ đầy đủ các giá trị
về đời sống văn hóa tinh thần.
Trong
quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội, Hải Dương và TP Hải Phòng được
lựa chọn là đối tượng nghiên cứu của vùng với sự xác định: “Vùng động
lực phát triển kinh tế, công nghiệp, dịch vụ tập trung trên trục kinh tế
giữa đô thị hạt nhân TP Hà Nội, TP Hải Phòng và TP Hạ Long trong đó đô
thị Hải Dương đóng vai trò trung tâm cấp vùng, phát triển công nghiệp
nhẹ, kỹ thuật cao và hỗ trợ phát triển các loại công nghiệp chế biến của
vùng đồng bằng phía Nam, Đông Nam đồng bằng sông Hồng”. Với vị trí
chiến lược như vậy, trước yêu cầu phát triển mới trong công cuộc CNH,
HĐH của đô thị loại II, đang đặt ra cho TP vận hội mới, cũng như thách
thức mới.
Theo
nhận định của các chuyên gia về quy hoạch, xây dựng, công tác quy hoạch
của TP cần phải được điều chỉnh nhằm phù hợp với yêu cầu phát triển đô
thị, phù hợp với định hướng phát triển vùng Thủ đô, và phù hợp với vị
trí, chức năng của đô thị trung tâm tỉnh, một đô thị loại II.
Về
vấn đề này, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương Nguyễn Trọng Thừa cho
biết: Đây vừa là niềm tự hào, nhưng cũng đòi hỏi nâng cao ý thức, trách
nhiệm của cán bộ và các tầng lớp nhân dân để quyết tâm xây dựng TP Hải
Dương giàu đẹp hơn nữa, xứng tầm và vị thế trong giai đoạn phát triển
mới. Để đáp ứng yêu cầu phát triển mới, tỉnh đã đưa ra tiêu chí “Công
tác quy hoạch phải đi trước một bước”. Công tác nghiên cứu quy hoạch
trong giai đoạn này phải có tầm nhìn cho nhiều chục năm sau… Luôn có
giải pháp về phát triển giao thông, phát triển công nghiệp – dịch vụ,
quỹ đất dành cho phát triển dân cư, cây xanh mặt nước cũng như nội dung,
quy mô, chất lượng của các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, văn hóa,
thể thao…
Dưới
góc độ một nhà quản lý đô thị, Phó chủ tịch UBND TP Hải Dương Nguyễn
Quang Vinh cũng cho biết: Cùng với việc TP đang tiếp tục đầu tư, phát
triển đồng bộ các công trình về hạ tầng, chỉnh trang diện mạo đô thị,
chú trọng đầu tư, phát triển về cảnh quan đô thị… TP cũng đang đẩy mạnh
việc di chuyển một số cơ sở ra khỏi trung tâm TP để xây dựng các công
trình công cộng, khu công viên cây xanh. Hải Dương sẽ là TP đầu tiên
thực hiện được điều này.
Ông
Vinh cũng xác định: TP Hải Dương là vùng phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn, các KCN kỹ thuật cao, công nghiệp xuất khẩu, tập trung
nhiều nhà máy, xí nghiệp, chính vì vậy lượng công nhân tập trung rất
lớn. Vấn đề nhà ở cho người lao động cũng đang được TP đặt ra với yêu
cầu cấp thiết…
Đến
năm 2010, TP Hải Dương sẽ phát triển lên 21 đơn vị hành chính, trong đó
sẽ có 2 phường mới được tách ra từ các phường Thanh Bình, Ngọc Châu.
Khi đó dân số của TP sẽ vào khoảng 300 nghìn người. Theo định hướng phát
triển đến năm 2020, TP sẽ mở rộng chủ yếu về phía Bắc, một phần về
hướng Tây, hướng Nam; dần đưa dòng sông Thái Bình chảy qua giữa lòng TP.
Dọc 2 bên bờ sông được quy hoạch thành khu du lịch sinh thái, công viên
cây xanh.
Con
sông Sặt thơ mộng cũng sẽ được uốn lượn giữa lòng TP. Bờ Nam sông Sặt
đã quy hoạch xây dựng các khu liên hợp thể thao, các trường đào tạo, các
bệnh viện Nhi, Y học dân tộc và khu văn hoá du lịch dọc triền sông.
Theo đánh giá của các nhà quy hoạch, TP sẽ có cấu trúc hiện đại và giàu
bản sắc địa phương
|
|
|
Thành tựu khoa học công nghệ
|
|
Năm
1954 hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện đường lối của Đảng: khôi
phục, phát triển kinh tế ở miền Bắc, tiến hành cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, Trường Đại
học Nông nghiệp và một số cơ sở khoa học và công nghệ về thổ nhưỡng,
thuỷ lợi, thuỷ sản, cơ khí, giao thông... được xây dựng và từng bước
phát triển. Nhiều kết quả KHCN, nhất là nông nghiệp đã được tuyên
truyền, phổ biến vào sản xuất, đời sống ở miền Bắc nói chung, tỉnh Hải
Dương nói riêng.
1. Trong nông nghiệp:
Thành
tựu nổi bật nhất thời kỳ này là đã xác định vị trí của vụ xuân thay cho
vụ lúa chiêm có từ bao đời. Các giống chiêm tép, chiêm bầu, chiêm gíc,
nghệ, gi... có thời gian sinh trưởng dài, năng suất thấp được thay thế
bằng các giống lúa tiến bộ kỹ thuật (TBKT) như NN8, trân châu lùn,
314... có thời gian sinh trưởng ngắn hơn, năng suất cao hơn từ 40-60% đã
tạo ra vụ xuân phát triển nhanh từ 7,7% diện tích năm 1968 và 63% diện
tích năm 1974 và đến nay đã trở thành vụ sản xuất chính trong vụ đông
xuân, là vụ lúa cao nhất ở miền Bắc Việt Nam.
Cùng
với việc phát triển lúa xuân, ngay từ những năm 1960 và 1970 tỉnh ta đã
coi trọng áp dụng các thành tựu KHCN để cải tạo các giống lúa, giống
màu và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh tiên tiến nhằm thâm
canh, tăng vụ, tăng năng suất và sản lượng lương thực. Đã thí nghiệm có
kết quả và triển khai áp dụng vào sản xuất các giống lúa ngắn ngày như
cần thơ 1, cần thơ 2, NN1A; các giống chịu úng: U14, U17, U20, U21,
Masuri; các giống chịu hạn như CH1, CH3, CH4; các giống lúa thuần chọn
tạo trong nước có năng suất cao, chất lượng bảo đảm: NN75-1, NN75-2,
DT10, DT11, C70, C71, V4, CR203, NN75-6, NN75-10, VN10, Xi-21, Xi-23,
CR01, Xi-12, BM9830...; các giống lúa thuần nhập nội: Bao thai lùn, Mộc
tuyền, Mộc khâm, Masuri, Mộc hương, Khang dân 18, San hoa 165, Q5, ải
mai hương, Khâm dục 63, Nếp 352...; các giống lúa lai: San ưu quế 99,
San ưu quế 63 và cán bộ kỹ thuật của tỉnh đã duy trì được giống bố, mẹ
và sản xuất được giống F1 lúa lai 2 dòng, 3 dòng áp dụng vào sản xuất
nông nghiệp của tỉnh. Đồng thời kết hợp với các biện pháp kỹ thuật thâm
canh trong sản xuất như: xử lý hạt giống lúa 'ba sôi, hai lạnh', cấy
dày, cấy nông tay, cấy thẳng hàng, gieo thẳng lúa; gieo cấy đúng thời
vụ; áp dụng các biện pháp kỹ thuật để tăng nguồn phân: nhân thả bèo hoa
dâu cho lúa gieo, lúa cấy; sản xuất bèo hoa dâu vụ hè, để giống bèo hoa
dâu qua đông; ủ phân chuồng, làm phân xanh, sử dụng bùn ao bón ruộng,
dùng vôi cải tạo ruộng chua; áp dụng phân hoá học: đạm, lân, kali và
thuốc sâu đối với cây trồng; áp dụng hàng ngàn trạm bơm điện, bơm dầu,
đưa diện tích tưới bằng cơ giới, tưới tiêu hợp lý và tưới tiêu khoa học
cho lúa, cây trồng cạn đạt khoảng 70% diện tích ngay từ những năm 1980,
tạo điều kiện để chuyển tập quán canh tác 'làm dầm' sang làm ải, mà tác
dụng của phơi ải đã được nông dân ta đúc kết 'một nắng đất nỏ bằng một
giỏ phân'.
Cùng
với việc tăng cường đổi mới cơ chế quản lý trong hợp tác xã và trong
sản xuất nông nghiệp, các kết quả về các TBKT nêu trên đã góp phần quan
trọng đưa năng suất lúa của tỉnh vượt qua 'cửa ải' 5 tấn vào năm 1972,
là năm chiến tranh ác liệt nhất. Từ đó, năng suất lúa bình quân trên 1
ha/1 năm của tỉnh không ngừng tăng lên: 5,38 tấn năm 1980, 6,42 tấn năm
1985, 6,79 tấn năm 1990, 10,28 tấn năm 1995. Sau khi tái lập tỉnh, năng
suất và sản lượng thóc mỗi năm một tăng: năm 1997 có năng suất 10,25
tấn/ha, sản lượng 762.248 tấn; năm 200 năng suất là 11,16 tấn/ha, sản
lượng 823.456 tấn; năm 2004 năng suất là 11,17 tấn/ha, sản lượng 798.507
tấn.
Nghiên
cứu các biện pháp kỹ thuật để tăng năng suất và sản lượng cây lúa, đưa
giá trị sản xuất hàng hoá, thóc gạo của tỉnh ngày càng cao thì Hải Dương
cũng là tỉnh dẫn đầu về nghiên cứu phát triển vụ đông từ rất sớm. Do đã
nghiên cứu áp dụng được các giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn,
năng suất cao như NN1A, cần thơ 1, cần thơ 2, đồng nai, NN75-6, NN75-10,
CN22... và các giống cây lương thực, cây rau màu như: ngô, khoai tây,
khoai lang, hành, tỏi, cà rốt, đậu tương, dưa hấu, dưa lê, dưa chuột...
đã tạo điều kiện để Hải Dương phát triển vụ đông như một vụ sản xuất
chính, và dưa tỷ lệ vụ đông đạt trung bình 35-40% diện tích canh tác
hàng năm, nhờ đó mà hệ số sử dụng ruộng đất không ngừng được tăng lên từ
1,68 vụ/năm (khi còn cấy lúa chiêm) tăng lên 2,3-2,4 lần năm 1985 cho
đến nay; sản xuất vụ đông đã tạo nên các sản phẩm nông sản của tỉnh
phong phú, đa dạng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo thêm được nhiều
việc làm ở nông thôn, thu hút được nhiều lao động ở lĩnh vực khác, nhất
là lĩnh vực bảo quản, chế biến.
Các
công cụ cải tiến và cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp đã được quan
tâm áp dụng vào sản xuất để giảm sức lao động cho nông dân, để đảm bảo
kịp thời vụ cho cây trồng, để thâm canh, luân canh tăng vụ, phát triển
vụ đông như: cày cải tiến 50 và 51, bừa cải tiến có nhiều răng, cào cỏ
34A, guồng nước, máy tuốt, đập lúa, máy xay xát, máy nghiền thức ăn gia
súc... để đến năm 1974 đã có trên 90% hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh
được trang bị cơ khí nhỏ trong một khâu hoặc nhiều khâu công tác. Trong
cơ giới hoá khâu làm đất đã nghiên cứu quy trình làm đất hoàn chỉnh cho
cây lúa nước và thiết kế cải tiến công cụ làm phẳng mặt ruộng cho lúa
gieo thẳng, quy trình làm đất vụ đông khi gặp thời tiết bất thuận (đất
dở khô, dở ướt); áp dụng rộng trong ngành quy trình mạ phục hồi chi tiết
máy kéo; cải tiến bánh lồng máy kéo MTZ250 dùng cho máy kéo U250M để
phục vụ sản xuất kịp thời; nghiên cứu đạt kết quả và triển khai áp dụng
rộng trong sản xuất các mô hình: chăm sóc, sửa chữa, cung cấp nguyên vật
liệu, phụ tùng cho các cụm cơ khí hợp tác xã, bảo dưỡng kỹ thuật cho
máy kéo theo vụ, theo hợp đồng và sơ đồ rải thửa... đã đưa diện tích cơ
giới hoá làm đất từ 5,9% năm 1966 lên 19% năm 1974 và 65,51% năm 2004.
Trong
chăn nuôi gia súc, gia cầm: Từ những năm 1960, tỉnh Hải Dương đã áp
dụng thí nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn và thành lập Trạm thụ tinh
nhân tạo tỉnh Hải Dương tại Cẩm Khê, xã Tứ Minh (khi có chiến tranh phá
hoại năm 1965 thì sơ tán về Tứ Kỳ). Năm 1965 đã nhập các giống lợn đực
ngoại về nuôi như: Tân cương, Tân kim, Đại bạch, Trung bạch, Yorshiac,
Landruce, sau này được bổ sung thêm có giống đực ngoại Duroc, Edel...
Kết hợp với việc áp dụng các TBKT trong thức ăn cho lợn: thức ăn hỗn
hợp, men vi sinh, ủ khoai tây yếm khí, cho lợn ăn thức ăn sống theo khẩu
phần để đáp ứng yêu cầu chăn nuôi tập thể quy mô lớn, thức ăn công
nghiệp...
Cùng
với việc đẩy mạnh các biện pháp thú y đã tạo điều kiện cho lợn nai kinh
tế và trọng lượng xuất chuồng bình quân không ngừng được nâng cao qua
các năm: Lợn lai F1 năm 1975 chiếm 25% tổng đàn lợn thịt, trọng lượng
bình quân xuất chuồng 45kg/con; năm 1981 chiếm 51% và 51,2kg; năm 1985:
79,2% và 64kg. Năm 1993-1994 đã nghiên cứu thành công và triển khai áp
dụng vào sản xuất lợn 3/4 máu ngoại, có tỷ lệ xuất trên trọng lượng hơi
giết mổ hơn lợn lai F1 10%, lợn ngoại thuần có tỷ lệ nạc cao, xây dựng
vùng sản xuất lợn nái F1, nái ngoại để chủ động sản xuất con giống phục
vụ chương trình 'nạc hoá đàn lợn' đạt kết quả, đưa tỷ lệ lợn thịt của
tỉnh đến nay là 100% lợn máu ngoại, trong đó: 65% lợn F1, 20% lợn 3/4
máu ngoại, 15% lợn ngoại, số nái ngoại chiếm khoảng 4,6%; có 22,4% số hộ
gia đình nuôi lợn thịt theo quy mô công nghiệp.
Đã
khảo nghiệm, sản xuất thử thành công và triển khai áp dụng vào sản xuất
đại trà các giống: bò sind đực, thụ tinh nhân tạo cho bò để thực hiện
chương trình sind hoá đàn bò của tỉnh, dê Bách Thảo, đưa tỷ lệ bò lai
sind đạt 50,8%, số bò sind đực có 96 con (năm 2004); các giống gà lai có
năng suất cao: 888, Browich, E93, Goldline, Hyline, plymouth, Kabir,
Tam hoàng, Lương phượng, sasso; các giống vịt ngoại và vịt lai: Bắc
Kinh, Anh đào, vịt lai Anh đào với vịt cỏ, vịt siêu trứng, vịt siêu
thịt; các giống ngan, ngỗng: ngan R31, R51, R71, ngỗng Renan, ngỗng sư
tửửửử; trong nuôi trồng thuỷ sản: năm 1964 tỉnh ta đã nhập và cho đẻ
nhân tạo thành công được giống cá mè hoa, mè trắng, trắm cỏ để phục vụ
sản xuất đại trà; tiếp tục áp dụng các giống cá mới năng suất cao, chất
lượng đảm bảo: chép Hung, trê Phi, trôi ấn Độ để phát triển rộng phong
trào 'ao cá Bác Hồ'; nghiên cứu xác lập các quy trình 'nuôi thâm canh ba
ba thịt, sản xuất ba ba giống', nuôi ếch, lươn, rắn; xây dựng các mô
hình nuôi tôm càng xanh, cá tra, rô phi đơn tính tập trung xuất khẩu có
giá trị hàng hoá cao...
Đối
với cây ăn quả, hoa và cây cảnh: Đã nghiên cứu và triển khai áp dụng
các kết quả: khắc phục tính cách năm vải thiều, phòng và điều trị bệnh
chết rũ của cây vải; kỹ thuật: chiết, ghép và các chế phẩm đậu hoa, đậu
quả, phân vi sinh diệt mối hại cây vải, kích thích sinh trưởng cây ăn
quả... áp dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật để nhân nhanh các
giống hoa phong lan hàng vạn cây phục vụ sản xuất; áp dụng các giống hoa
mới như các loài hoa cúc: đại đoá, Đài Loan, vạn thọ, đồng tiền, hoa
hồng Đà Lạt, hoa hồng Pháp, Layơn, loa kèn, cẩm chướng đỏ; đã phát triển
trồng hoa, cây cảnh là một nghề trong sản xuất nông nghiệp, có thu nhập
cao...
Các
kết quả về KHCN nêu trên đã đóng góp quan trọng trong chuyển dịch cơ
cấu trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn: đã chuyển đổi được trên
10.000ha ruộng trũng cấy lúa bấp bênh, hiệu quả kinh tế thấp sang trồng
cây ăn quả, chăn nuôi thuỷ, đặc sản có hiệu quả kinh tế cao; phát triển
được 603 trang trại (bằng 352% so với năm 2001); hình thành được các
vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá: vải thiều (Thanh Hà, Chí Linh),
hành, tỏi (Nam Sách, Kinh Môn, Thanh Hà), cà rốt (Cẩm Giàng), cá, ba ba
(Tứ Kỳ, Cẩm Giàng, Ninh Giang, Kim Thành), hoa, cây cảnh (Gia Lộc, TP
Hải Dương); tỷ trọng giữa trồng trọt - chăn nuôi, thuỷ sản - dịch vụ có
sự chuyển biến tích cực từ 70,5% - 26,8% - 2,7% năm 2002 đến năm 2005 dự
kiến là 57,3% - 33,8% - 9%; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp giai đoạn
2001-2005 tăng trung bình 5,3%/năm, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt
37,2 triệu đồng/ha, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 5,2%
2. Trong các ngành công nghiệp, phát thanh và truyền hình, Bưu chính viễn thông:
Trước
Cách mạng tháng Tám 1945, cả tỉnh ta chỉ có 2 nhà máy rượu: Nhà máy
rượu với 170 công nhân người bản xứ và nhà máy chai có khoảng 100 thợ.
Năm 1954, sau khi miền Bắc được giải phóng, với phương châm 'kết hợp
kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế thống
nhất', bên cạnh các nhà máy do Trung ương xây dựng như Nhà máy xay Ninh
Giang, Nhà máy sứ, Nhà máy bơm, tỉnh đã xây dựng một số nhà máy, xí
nghiệp và phát triển hàng trăm làng nghề, thu hút hàng chục ngàn lao
động để cùng với các xí nghiệp công nghiệp phục vụ sản xuất và chiến
đấu. Công tác nghiên cứu, cải tiến bước đầu đã được quan tâm và phát huy
tác dụng tại cơ sở. Các cán bộ kỹ thuật trong các xí nghiệp công nghiệp
của tỉnh và các thợ lành nghề trong tiểu thủ công nghiệp đã tự nghiên
cứu, thiết kế thi công thành công, đưa vào áp dụng trong sản xuất, đời
sống: máy bơm nước loại từ 500- 4000 m3/s, một số bộ phận của
máy 'Bông sen 12'; máy bào kẹp 450 để sản xuất cánh cống thuỷ lợi, máy
tiện A3 để sản xuất phụ tùng xe cải tiến, xe bò, cào cỏ 34A...; máy xay
xát Nam Hà, máy thái rau bèo phục vụ chăn nuôi tập thể, sản xuất xà lan
200 tấn, thuyền xi măng lưới thép, tàu Hải Hà chạy đường sông 110 chỗ
ngồi; thi công xây lắp được một số công trình đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và
thẩm mỹ như: Hội trường tỉnh, Nhà hát nhân dân...
Sau
khi miền Nam thống nhất, nhất là do tác động đổi mới của nền kinh tế
sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, thị trường có cạnh tranh và do sức
ép của hàng ngoại, KHCN trong công nghiệp của tỉnh ta đã tập trung theo 2
hướng:
-
Tiếp thu công nghệ, thiết bị tiên tiến của nước ngoài để khai thác,
phát huy nguyên liệu, lao động sẵn có như nhiệt điện Phả Lại, xi măng
Hoàng Thạch, xi măng Phúc Sơn, Công ty thực phẩm Nghĩa Mỹ, Vạn Đắc Phúc,
thức ăn chăn nuôi Hoa Kỳ, Công ty TNHH ô tô Ford Việt Nam, các công ty
sản xuất nhôm TungKoang, dây cáp điện TAYT, dây điện sumidenso...
-
Lựa chọn các TBKH hợp lý, tiến tiến để đổi mới và hoàn thiện các công
nghệ đã có kết hợp với đổi mới về quản lý, nhất là áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng tiên tiến Q.Base, ISO 9000 để khai thác nguyên liệu, lao
động tại chỗ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đã có, tạo ra sản phẩm
mới đáp ứng yêu cầu thị trường: sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc,
giầy da, cơ khí, bia và nước giải khát...
Đồng
thời đã áp dụng các TBKT tạo ra các sản phẩm mới như: xi măng trắng,
ống cấp nước bê tông chịu lực...; khung và phục tùng xe đạp, quạt trần,
quạt bàn, que hàn, cột điện trộn ly tâm, tấm lợp phibrô xi măng, các
loại gạch: men sứ, lát nền, trang trí, ốp lát. Đã nghiên cứu cải tiến và
áp dụng TBKT để khôi phục các làng nghề: trạm khắc gỗ Đông Giao, gốm sứ
Cậy, rượu Phú Lộc, giầy da Hoàng Diệu, thảm quại Nam Sách; một số làng
nghề tự nghiên cứu cải tiến để nâng cao chất lượng các sản phẩm phục vụ
xuất khẩu như: thuỷ tinh, gốm sứ, mây tre, thảm cói, thảm bẹ ngô, mây
tre đan... Phục hồi và phát triển các loại bánh đặc sản: bánh đậu, bánh
gai; sản xuất sản phẩm mới: rượu vang vải, rượu vang táo; muối nhạt kết
hợp bảo quản lạnh để chế biến dưa chuột, muối ớt xuất khẩu; trồng nấm ăn
quy mô hộ gia đình; áp dụng lò sấy cải tiến trong sấy nông sản hành,
tỏi, cà rốt, bí đỏ, giảm chi phí nhiên liệu, nâng cao chất lượng và giá
trị hàng hoá sản phẩm, giảm thiểu độc hại đối với con người và ô nhiễm
môi trường.
Trong
xây dựng các công trình nhà cao tầng trên khu đất yếu, có địa hình phức
tạp đã áp dụng TBKT: cột thấm bản nhựa, cọc cát móng bè, cọc bê tông
cọc nhồi chịu lực; thiết kế và thi công những công trình nhiều tầng, có
kiến trúc phức tạp, quy mô lớn như: nhà làm việc Tỉnh uỷ, bệnh viện 500
giường, xi măng Duyên Linh...
Phát
thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông: đã đầu tư thiết bị hiện đại
(máy phát hình màu, thiết bị trộn hình kỹ xảo) cho truyền hình tỉnh và
đã phủ sóng truyền hình trong toàn tỉnh. Trong bưu chính viễn thông đã
áp dụng kỹ thuật mã số, vệ tinh để hoà nhập mạng lưới thông tin liên lạc
quốc gia, quốc tế; 100% huyện, thị trấn, làng xã đã có máy điện thoại,
trung bình 100 người dân có 6,5 máy điện thoại. Dự án công nghệ thông
tin được quan tâm đầu tư bằng nhiều nguồn vốn và đạt kết quả cả về phát
triển cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin.
Những
thành tựu đạt được nêu trên đã đóng góp cho sản xuất công nghiệp Hải
Dương có giá trị sản xuất tăng nhanh trung bình thời kỳ 2001-2005: 21%,
tỷ trọng công nghiệp - xay dựng tăng nhanh trong cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ: năm
1997: 35,5%, 2001: 38%, 2005: 43%; hàng năm tạo việc làm mới 1,2- 2 vạn
lao động.
3. Trong khoa học xã hội và nhân văn:
- Trong lĩnh vực y tế, tài nguyên và môi trường:
+ Trong y tế:
Đã
tiến hành điều tra cơ bản và triển khai thực hiện có kết quả các chương
trình: bại liệt, thương hàn, lao màng não, tiêu chảy, giun chỉ, bướu
cổ, sốt rét, đau mắt đỏ, suy dinh dưỡng ở trẻ em, bệnh nghề nghiệp ở các
khu công nghiệp...; nghiên cứu cải tiến và áp dụng có kết quả các TBKT:
điều trị cho bệnh nhân phong tại xã và phục hồi chức năng cho bệnh nhân
phong; triệt sản nam không cần dùng dao, dụng cụ màng cổ tử cung được
công nhận là sáng chế công vụ đầu tiên của tỉnh; phễu lọc dịch truyền,
điều trị áp se phổi bằng phương pháp dẫn lưu gây chính chủ động, áp dụng
châm cứu điều trị câm điếc cho trẻ em và cai nghiện ma tuý tại cộng
đồng; thay thuỷ tinh thể cho người mù, loà...; đã sử dụng các kỹ thuật
và thiết bị tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị đạt kết quả cao: mổ
phình đại tràng theo phương pháp sinvenson, bơm hơi đại tràng để chẩn
đoán khối u, dùng máy siêu âm và chụp X quang cao tần, chụp cắt lớp, mổ
nội soi, thiết bị đo quang phổ trong xét nghiệm, kỹ thuật Serodia và
Eliza trong chẩn đoán HIV... Đã áp dụng rộng rãi các TBKT dân số và kế
hoạch hoá gia đình: đặt vòng, triệt sản, nạo hút thai, dùng ca pốt, mổ
đình sản bằng phương pháp Minilap-Pomerocy cải tiến. Đến cuối năm 1981,
toàn tỉnh đã có 100% số xã, 76% số trường học, 48% có vườn thuốc, khóm
thuốc; đã nghiên cứu di thực một số cây thuốc quý được phát triển trong
các vườn thuốc của tỉnh: bạc hà 974, bạch chĩ, cam thảo Hung, cát cánh,
đương quy, DC-580, DF, hương nhu trắng, ngưu tất, sả ấn Độ, thanh cao
hoa vàng, tục đoạn, vân mộc hương, huyền sâm... Và đã sản xuất được 93
mặt hàng thuốc, trong đó tự túc được 60- 68% lượng thuốc từ nguyên liệu
của tỉnh. Trong đó có bài thuốc: chiết suất phi tin từ cám, Gclatin từ
da lợn, men tiêu hoá từ tuỵ lợn. Ngoài ra còn thực hiện các đề tài
nghiên cứu đề xuất các giải pháp về y tế cơ sở, y học cổ truyền và cơ
cấu bệnh tật Hải Dương đến năm 2010...
+ Trong tài nguyên và môi trường:
Đã
tiến hành điều tra hiện trạng môi trường và tài nguyên làm cơ sở cho
quy hoạch, kế hoạch các vấn đề liên quan như hiện trạng môi trường: tỉnh
Hải Dương, thị xã Hải Dương, huyện Chí Linh và phụ cận; động thực vật
vùng Chí Linh, môi trường làng nghề. Triển khai các TBKT có kết quả
trong xử lý và giảm thiểu ô nhiễm môi trường: bếp đun than cải tiến, hầm
khí sinh học Biogas, lò đốt rác thải tiên tiến ở bệnh viện tỉnh; lò đốt
rác thải và bể xử lý nước thải bệnh viện tuyến huyện, hệ thống xử lý
nước thải tiên tiến của Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương và Viện
Quân y 7, xử lý bãi rác Cầu Cương, xây dựng các bãi chôn lấp rác hợp vệ
sinh ở các huyện; áp dụng lò gạch liên tục kiểu đứng thay cho lò gạch
thủ công có giá thành giảm, chất lượng đảm bảo, giảm ô nhiễm môi trường:
khí 2,5%, nhiệt độ khói thải 31-33%; phối hợp với Quỹ Môi trường toàn
cầu thực hiện các dự án nhằm khôi phục, bảo tồn, phát triển đảo cò Chi
Lăng Nam (Thanh Miện); xây dựng làng năng suất xanh đạt kết quả.
- Trong giáo dục và đào tạo:
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khốc liệt, khó khăn gian khổ toàn
ngành giáo dục sôi nổi thực hiện phong trào thi đua 'hai tốt' để nâng
cao chất lượng dạy và học trong nhà trường, mà một trong những nội dung
của phong trào là phong trào sáng kiến, kinh nghiệm, đồ dùng dạy học.
Tháng 6/1970, tại thị xã Hải Dương, Ty Giáo dục (nay là Sở Giáo dục và
Đào tạo) đã tổ chức triển lãm đồ dùng dạy học trong toàn ngành, gồm 130
đồ dùng giảng dạy về các môn Văn, Sử, Địa, Toán, Lý, Hoá, Sinh vật từ
mẫu giáo đến lớp 10 (bằng lớp 12 hiện nay). Từ ngày 1 đến 3/2/1975,
ngành Giáo dục tổ chức Hội nghị giáo viên ưu tú đúc rút sáng kiến, kinh
nghiệm giảng dạy. Tại Hội nghị thi tuyển đồ dùng học tập do Bộ Giáo dục
và Đào tạo tổ chức (tháng 6/1976) cho toàn miền Bắc, tỉnh Hải Dương được
xếp giải nhất. Tại các Hội nghị tổng kết sáng kiến, sáng chế và sở hữu
công nghiệp của tỉnh, ngành Giáo dục - Đào tạo luôn là ngành có nhiều
sáng kiến nhất, và có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm có giá trị được áp
dụng rộng trong ngành.
Trong
nghiên cứu triển khai các đề tài KHCN đã được quan tâm và đóng góp tích
cực cho ngành trong triển khai cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng
giáo dục- đào tạo trong thời kỳ kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn.
Đã điều tra hiện trạng giáo viên cấp I, cấp II và lập quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng thời kỳ 1996-2000. Đã nghiên cứu có
kết quả và áp dụng rộng trong ngành các đề tài: Chương trình đào tạo
ngắn hạn giáo viên mầm non; giáo dục cộng đồng ở xã, phường, thị trấn,
tài liệu giảng dạy địa lý, lịch sử tỉnh Hải Dương ở các cấp học, dạy tin
học, môi trường trong nhà trường...
- Trong lĩnh vực xã hội:
Tiến
hành các đề tài phục vụ cho bảo tồn, phát huy văn hoá truyền thống của
tỉnh như: năm 1971, Hải Dương là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc hoàn thành
kiểm kê các di tích bước một trong toàn tỉnh; điều tra hiện trạng và đề
xuất quy hoạch tổng thể các khu di tích: Côn Sơn, Kiếp Bạc, Kính Chủ,
Yên Phụ, đền thờ Chu Văn An...; khai quật, sưu tầm, phục chế gốm cổ phục
vụ xuất khẩu; sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn và xuất bản các công
trình: gốm Chu Đậu, thư mục Hán nôm, Tiến sỹ nho học Hải Dương, danh
nhân, nhà văn hiện đại và các văn nghệ sỹ tiêu biểu Hải Dương, danh y
châm cứu Nguyễn Đại Năng và các lương y tiêu biểu của tỉnh từ năm 1945
đến nay; nghề cổ truyền Hải Dương tập I, II, III; phong tục, tập quán và
lễ hội tiêu biểu của tỉnh; địa chí Hải Dương...
UBND
tỉnh đã chủ trì tổ chức Hội thảo khoa học, trưng bày giới thiệu thân
thế, sự nghiệp Nguyễn Trãi tại di tích Côn Sơn, và đã phối hợp với các
cơ quan khoa học Trung ương hội thảo và tiến hành xây dựng tượng đài
Trần Hưng Đạo trên đỉnh núi Yên ngựa, thuộc khu di tích lịch sử - văn
hoá Mao Điền (Cẩm Giàng); tạc tượng Lê Hoàn ở Đền Cao (Chí Linh); Hội
thảo khoa học về Nguyễn Đình Nghệ và sự phát triển bộ môn nghệ thuật
chèo Việt Nam...
Kết
quả các đề tài còn là luận cứ khoa học cho việc cụ thể hoá các Nghị
quyết, chính sách của Trung ương phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh:
Thí nghiệm đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, phát triển kinh tế
trang trại, Đảng bộ cơ sở lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo, KHCN
trong sự nghiệp đổi mới, định hướng phát triển KHCN và bảo vệ môi trường
đến năm 2010; nghiên cứu, điều tra hiện trạng và đề xuất các giải pháp:
vai trò tổ chức cơ sở Đảng lãnh đạo thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn; bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức của tỉnh đến năm 2005; xây dựng quốc phòng địa phương cấp xã trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; giải quyết mâu thuẫn phát sinh
trong cộng đồng dân cư nông thôn, đấu tranh chống tội phạm trong các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các đơn vị có vốn đầu tư nước
ngoài; điều tra đánh giá năng lực công nghệ các lĩnh vực công nghiệp của
tỉnh; xác định chỉ số phát triển con người Hải Dương (HDI)...
Cùng
với sự phát triển về đội ngũ cán bộ KHCN, cơ sở vật chất - kỹ thuật của
KHCN, các kết quả có tính khái lược về áp dụng các thành tựu KHCN trong
các lĩnh vực nêu trên cho thấy: Từ khi hoà bình lập lại (1954) đến nay,
mặc dù phải trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hết sức khốc
liệt và gian khổ, nhưng được sự quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp
uỷ Đảng và chính quyền, đội ngũ cán bộ KHCN của tỉnh đã không ngại khó
khăn, gian khổ, thiếu thốn, hăng hái, nhiệt tình trong nghiên cứu và áp
dụng các thành tựu KHCN có hiệu quả trong nông nghiệp và phát triển nông
thôn, trong các ngành công nghiệp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, khôi phục và phát triển văn hoá truyền thống. Đặc biệt là khoa học
xã hội đã được quan tâm đầu tư và từng bước thực hiện được nhiệm vụ:
cung cấp luận cứ khoa học cho lãnh đạo cụ thể hoá các nghị quyết, chính
sách của Trung ương phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh. Kết quả các
hoạt động KHCN nói chung, áp dụng các thành tựu KHCN từ năm 1954 đến nay
nói riêng, đã đóng góp quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế những
năm gần đây có rất nhiều tiến bộ: năm 1997 tỷ trọng giữa: nông nghiệp,
lâm nghiệp, thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ là 35,4% - 36,6% -
28%, năm 2002: 32,3% - 39,2% - 28,5%, năm 2004: 28,5% - 42,3% - 29,2%,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn khu di tích lịch sử văn hoá Côn Sơn - Kiếp Bạc
|
|
Sáng
27-7, UBND tỉnh tổ chức lễ công bố Quyết định 920/QĐ - TTg ngày
18-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể bảo tồn
khu di tích lịch sử văn hoá Côn Sơn - Kiếp Bạc gắn với phát triển du
lịch thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương”. Các đồng chí Trần Chiến Thắng,
Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Nguyễn Đình Toàn, Thứ trưởng
Bộ Xây dựng; Nguyễn Thị Minh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh
tới dự.
Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, phạm vi quy
hoạch có tổng diện tích 8.340 ha, được phân thành 2 vùng: Vùng bảo tồn
và khai thác đặc biệt có 3.568 ha; vùng đệm có diện tích 4.772 ha. Trong
phân vùng bảo tồn đặc biệt được chia thành 3 khu vực: Khu vực Côn Sơn,
khu vực Kiếp Bạc và khu vực Phượng Hoàng. Phân vùng khai thác đặc biệt
có 9 khu chức năng: Khu dịch vụ chuyên đề hồ Côn Sơn; khu dịch vụ tổng
hợp trung tâm; khu dân cư xã Lê Lợi; khu phát triển du lịch nghỉ dưỡng,
sinh thái; khu công viên văn hoá lịch sử Côn Sơn; khu công viên Vạn Trì
Kiếp Bạc; khu núi Trán Rồng, Nam Tào, Bắc Đẩu; khu di tích khảo cổ núi
Bắc Đẩu; khu núi Phượng Hoàng. Tổng vốn đầu tư ước tính 1.600 tỷ đồng.
Thời gian thực hiện dự án quy hoạch gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm
2009 đến 2015; giai đoạn 2 từ năm 2015 đến 2020. Quy hoạch được thực
hiện sẽ mang lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế - xã hội, phù hợp với quy
hoạch phát triển của thị xã Chí Linh cũng như của tỉnh.
Thiết kế cảnh quan quy hoạch
Phát biểu tại lễ công bố, đồng chí Chủ tịch UBND
tỉnh Nguyễn Thị Minh đề nghị các cấp, các ngành, toàn thể nhân dân
trong vùng quy hoạch cần tuyên truyền, quảng bá rộng rãi quy hoạch để
nâng cao ý thức cộng đồng về bảo tồn phát huy giá trị của di tích. Tiến
hành các thủ tục xác định ranh giới vùng bảo tồn khai thác đặc biệt và
vùng đệm; tổ chức kiểm kê các công trình, tài sản, ruộng vườn, hoa màu
trong phạm vi quy hoạch; bảo vệ vùng đất đã được giao quản lý, không xây
dựng lấn chiếm, chuyển nhượng trái phép gây khó khăn cho việc thực hiện
quy hoạch. Cụ thể hoá các tiêu chí về quy mô, tầng cao công trình, hình
thức kiến trúc, màu sắc, mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất, phát triển
dân cư trong vùng quy hoạch. Xây dựng cơ chế thu hút các nguồn lực đầu
tư các hạng mục công trình trong vùng quy hoạch...
|
|
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét