Sơn La qua các thời kỳ lịch sử
Từ thời Hùng Vương đến trước khi thực dân Pháp xâm lược:
Từ thủa vua Hùng dựng nước, Sơn La thuộc bộ
Tân Hưng. Sau đó đến thời Lý, vùng đất này thuộc đạo Lâm Tây. Qua một
thời gian có tên gọi đạo Đà Giang. Đến năm 1397, dưới triều Trần, Sơn La
nằm trong trấn Thiên Hưng. Đây là thời kỳ đồng bào các dân tộc cùng
chung sức khai sơn, phá thạch, dựng nên nhiều châu, mường như:
Mường Muổi: Nhà
Trần biên chép vào sổ sách là Mỗi Châu, đến thời Lê đổi thành Thuận
Châu. Trung tâm Mường Muổi là Chiềng Ly (còn gọi là Chiềng Pha). Các
mường nhỏ thuộc phạm vi Mường Muổi, gồm có: Mường Sại (Chiềng Muôn),
Mường Piềng (Chiềng Khoang, Chiềng Pấc), Mường É (Chiềng Ve), Mường La
(Châu Sơn La), Mường Quài (Châu Tuần Giáo), Mường Mụa (Châu Mai Sơn).
Mường Cây: Nhà
Lê chép vào sử sách là Quỳnh Nhai, trung tâm châu mường đặt ở Mường Xo,
gồm các mường nhỏ: Mường Chiên (Chiềng Phung), Mường Cây (Quỳnh Nhai),
Mường Than (Than Uyên), Mường Mả (Lương Tiên), Mường Sát (Dương Quỳ),
Mường Bo (Cam Đường), Mường Xo (Phong Thổ), Mường Kim, Mường Tháo (Văn
Bàn).
Mường Tấc: Sử
sách nhà Lê chép là châu Phù Hoa. Đến năm Minh Mệnh thứ 19 (năm 1838)
đổi gọi là châu Phù Yên. Trung tâm châu mường đặt ở Viềng Tấc (nay là
Bản Viềng), gồm các mường nhỏ: Mường Pùa, Mường Muông, Mường Do, Mường
Lang, Mường Át, Mường Cúc (Thu Cúc), Mường Tòng, Mường Tèng (Lai Đồng),
Mường Vân, Mường Veng (Xuân Đài) nay thuộc Phú Thọ.
Mường Sang (còn
gọi là Mường Móc do có sương mù bao phủ): Sử sách nhà Lê ghi là Mộc
Châu. Mộc Châu trước có 23 mường động. Do địa thế quá rộng, nên năm Cảnh
Hưng thứ 36 (năm 1775) chia làm ba châu Đà Bắc, Mã Nam và Mộc Châu.
Trung tâm châu mường đặt ở Mường Sang, gồm các mường nhỏ: Mường Chiềng
Kỳ (Đà Bắc), Mường Ét, Chiềng Cọ (Mã Nam), Chiềng Đi, Chiềng Ban (Tú
Nang), Pơ Tao, Chiềng Cang, Chiềng Ve, Xuân Nha.
Mường Vạt: Sử sách nhà Trần ghi là Mường Việt, nhà Lê ghi là
Việt Châu. Năm Minh Mệnh thứ 3 (năm 1822) đổi Việt Châu thành Yên Châu.
Trung tâm châu mường đặt ở Chiềng khoong, nên còn có tên là Chiềng
Khoong, bao gồm các mường nhỏ: Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Mường Khoa,
Mường Lựm, Mường Ái.
Đến thời Nguyễn, các châu mường kể trên thuộc
vào phủ Gia Hưng (các châu Sơn La, Mai Sơn, Phù Yên, Mộc, Yên); Phủ Điện
Biên (hai châu Quỳnh Nhai, châu Thuận). Dưới các châu, nhà Nguyễn chia
thành các động, sau đổi ra tổng. Trong đó, châu Sơn La gồm có Mường La,
Mường Trai (Chiềng Nghiêm, Hiếu Trai), Mường Bú (Chiềng Biên), Mường
Chùm, Mường Chiến (Ngọc Chiến); Châu Mai Sơn gồm có Mường Mụa, Mường
Bon, Mường Chanh, Mường Hung, Mường Chiềng Cang; Châu Phù Yên gồm có
Quang Huy, Tường Phù, Gia Phù, Tường Phong, Tân Phong; Châu Mộc gổm có
Mộc Thượng, Mộc Hạ, Hướng Càn, Xuân Nha, Quy Hướng, Tú Nang; Châu Yên
gồm có Mường Vạt, Mường Khoa, Mường Sàng; Châu Quỳnh Nhai gồm có Yên
Trạch, Dương Dị, Yên Trình, Mường Tè; Châu Thuận gồm có Mường Muổi,
Mường Lầm, Mường Sại, Mường Piềng, Chiềng Pấc.
Châu, mường ở Sơn La là lãnh địa tập hợp từ 4
mường nhỏ (mường phìa) trở lên. Lúc đầu mường phìa được gọi là lộng (tức
là động). Lộng là bản khá lớn, thu phục nhiều bản nhỏ vào tầm ảnh hưởng
của mình. Mường phìa sở tại được gọi là mường phìa trong châu (mường
phìa cuông chu) để phân biệt với mường phìa ngoài (mường phìa nọ). Ly sở
của mường phìa được gọi là mường hoặc chiềng.
Đứng đầu mỗi châu mường là án nha – tương
đương với các chức vụ phụ đạo, tri châu hay thổ tù. Án nha có thông lại,
thư lại giúp việc; Có quyền tiến cử người đứng đầu mường phìa (phìa lý –
tức lý trưởng, phìa phó – tức phó lý) để trông coi. Mỗi mường phìa lại
có hội đồng bô lão, các chức ông xen, ông pọng, ông ho luông, ông quan
cuông và các chức vụ cấp thấp hơn như xự, lô, chá, chiếng, giúp vào các
việc an ninh, truyền đạt mệnh lệnh, làm tạp dịch cùng các tạo bản, quan
bản làm việc tạp dịch.
*Thời kỳ Pháp thuộc
Tháng 4 – 1884, quân Pháp chia làm hai mũi
đánh chiếm Hưng Hóa, do các tướng Brie đờ Lin và Nêgriê chỉ huy. Sau khi
chiếm được tỉnh thành, đại tá Đuysetnơ được giao việc quản lý và tiến
hành các cuộc hành quân chống lại cuộc phản kháng do Nguyễn Quang Bích
lãnh đạo.
Tháng 6 -1885, Hưng Hóa được đặt trong địa hạt
của Quân khu miền Tây do Lữ đoàn 1 đảm trách. Ngày 24 – 5 – 1886, Tổng
trú sứ Trung – Bắc Kỳ ra Nghị định chuyển châu Sơn La thành đơn vị hành
chính tương đương cấp tỉnh do viên Công sứ Pháp điều hành. Ngày
20-3-1888, để các hoạt động quan sự độc lập hơn và không lệ thuộc vào
viên Công sứ dân sự, nhà cầm quyền Pháp cho phép thực hiện ở Sơn La chế
độ Tài phán quân sự và cử thiếu tá Đờ Satôrôsê, Chỉ huy trưởng Quân sự
Sơn La – thượng lưu sông Đà, làm Phó Công sứ.
Theo sự điều chỉnh của giới quân sự Pháp, từ
tháng 4 – 1890, Sơn La thuộc Tiểu quân khu Sơn La với các đồn binh Sơn
La, Tạ Chan, Vạn Yên, cùng các Tiểu quân khu Lai Châu, Tiểu quân khu
Nghĩa Lộ hợp thành Quân khu Sơn La. Đồng thời, để giới quân sự có nhiều
quyền lực trong việc đàn áp các cuộc nổi dậy. Ngày 20-8-1891, Toàn quyền
Đông Dương ban hành Nghị định thành lập 4 Đạo quan binh ở Tây Bắc và
Việt Bắc. Đến ngày 4-9-1891, chính quyền thực dân ban hành tiếp Nghị
định quy định địa bàn của Đạo quan binh Sơn La (còn gọi là Đạo quan binh
thứ 4) bao gồm địa hạt Sơn La và các tổng Yên Lũng, Kiệt Sơn, Xuân Đài
(tách từ huyện Thanh Sơn, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) và tổng Cự Thắng
(tách ra từ huyện Thanh Thủy, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa); Thủ phủ đặt
tại Sơn La, do viên trung tá làm Tư lệnh.
Ngày 27 – 2 - 1892, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định chia Đạo quan binh Sơn La thành Tiểu quân khu Vạn Bú, bao gồm
phủ Vạn Yên (châu Mộc, châu Phù Yên), phủ Sơn La (các châu Sơn La, Yên,
Mai Sơn, Thuận, Tuần Giáo, Điện Biên); Tiểu quân khu phụ Lai Châu gồm
châu Lai, châu Luân, châu Quỳnh Nhai và mường Phong Thổ.
Ngày 10 – 10 – 1895, Toàn quyền Đông Dương ban
hành Nghị định xóa bỏ Tiểu quân khu Vạn Bú và Lai Châu, lập tỉnh Vạn
Bú, bao gồm toàn bộ đất đai của Đạo quan binh Sơn La. Tỉnh lỵ đặt tại
bản Pá Giang, tổng Hiếu Trai.
Ngày 7 – 5 – 1904, Toàn quyền Đông Dương ra
nghị định chuyển Tỉnh lỵ Vạn Bú từ Pá Giang về Chiềng Lề. Ngày 23 – 8 –
1904, Toàn quyền Đông Dương lại ra đề nghị định đổi tên tỉnh Vạn Bú
thành tỉnh Sơn La, cho phép có ngân sách hàng tỉnh riêng. Lúc đó, tỉnh
Sơn La bao gồm các châu: Châu Thuận, Mường La, Mai Sơn, Châu Yên, Châu
Mộc, Phù Yên, Tuần Giáo, Điện Biên, Châu Lai, Quỳnh Nhai và phủ Luân
Châu.
Ngày 28 – 6 – 1909, Toàn quyền Đông Dương ra
nghị định tách các châu Quỳnh Nhai, Điện Biên, Tuần Giáo, Châu Lai và
phủ Luân Châu thành lập tỉnh Lai Châu. Tỉnh Sơn La còn lại 6 châu, bao
gổm: Châu Thuận, Mường La, Mai Sơn, Châu Yên, Châu Mộc, Phù Yên.
* Từ Cách mạng tháng Tám đến nay
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong 9
năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Sơn La thuộc Chiến khu II, Liên khu
Việt Bắc, Liên khu X, Khu XIV và khu Tây Bắc. Trong đó, từ năm 1948 đến
tháng 1 – 1952, Sơn La hợp nhất với Lai Châu thành tỉnh Sơn Lai. Ngày
12 – 1 – 1952, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định tách hai tỉnh như cũ.
Sau chiến dịch Tây Bắc thắng lợi (tháng 12/1952), Khu ủy Tây Bắc quyết
định chuyển huyện Thuận Châu về Lai Châu. Đến tháng 2/1954, Thuận Châu
lại thuộc Sơn La. Đầu năm 1953, Khu ủy Tây Bắc quyết định thành lập
huyện Sông Mã, bao gồm vùng Mường Hung (huyện Mai Sơn), Mường Lầm (huyện
Thuận Châu), Sốp Cộp (huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu).
Từ tháng 5/1955 đến tháng 10/1962, các châu
(huyện) của Sơn La trực thuộc Khu tự trị Thái Mèo, không có cấp tỉnh.
Tháng 10/1961, thị xã Sơn La được thành lập.
Nghị quyết Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ V,
ngày 27/10/1962 đổi tên Khu Tự trị Thái Mèo thành Khu Tự trị Tây Bắc,
lập lại các tỉnh thuộc khu Tây Bắc, bao gồm: Sơn La, Lai Châu và Nghĩa
Lộ. Ngày 24/12/1962, Sơn La chính
thức tái lập. Huyện Quỳnh Nhai trước thuộc Lai Châu nay thuộc Sơn La,
huyện Phù Yên (bao gồm cả Bắc Yên ngày nay) của tỉnh Sơn La thuộc về
Nghĩa Lộ. Địa dư của tỉnh Sơn La gồm có thị xã Sơn La và 7 huyện Thuận
Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Mai Sơn, Sông Mã, Yên Châu và Mộc Châu.
Ngày 17/8/1964, Hội đồng Chính phủ ra Quyết
định số 128-CP, chia huyện Phù Yên của tỉnh Nghĩa Lộ thành hai huyện Bắc
Yên và Phù Yên.
Ngày 27/12/1975, kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khóa V
ra Nghị quyết bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính và hợp
nhất một số tỉnh. Tháng 1/1976, hai huyện Phù Yên và Bắc Yên của tỉnh
Nghĩa Lộ thuộc về tỉnh Sơn La.
Cùng với những thăng trầm lịch sử, nhân dân
các dân tộc tỉnh Sơn La đã hòa chung nhịp sống của đại gia đình các dân
tộc Việt Nam, góp phần bồi đắp cho truyền thống lịch sử, văn hóa nước
Việt. Và trong mỗi giai đoạn lịch sử, vùng đất này đều có những bước
phát triển mới, không ngừng tích lũy nội lực để vươn lên xứng tầm vị thế
thủ phủ Tây Bắc trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hiệu quả hoạt động của chính quyền chính là thước đo hiệu quả sự lãnh đạo của Ðảng.
Sau
khi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được công bố và kế hoạch tổ chức
lấy ý kiến nhân dân được triển khai, cho đến nay, nhiều ý kiến đóng góp
sâu sắc mang tính xây dựng của nhân dân cả nước được công bố trên hệ
thống truyền thông. Tuy nhiên, nhân cơ hội này, qua một số diễn đàn trên
internet, blog và cơ quan truyền thông nước ngoài, một số cá nhân lại
đưa ra ý kiến thiếu khách quan, thiện chí. Bức xúc trước thực tế đó,
ngày 18-2 vừa qua, bạn đọc Trung Thành - hiện sống tại Mỹ, đã gửi bài
viết này tới Báo Nhân Dân. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc.
Hơn
10 năm trước, vì lý do gia đình, tôi tới định cư tại nước Mỹ. Tuy sống
xa quê hương, nhưng tôi vẫn luôn coi mình là người Việt Nam, tôi vẫn
không quên công ơn của chế độ mới. Vì như cha tôi bảo, nếu không có cách
mạng, có lẽ tôi vẫn chỉ là người nông dân nghèo ở một làng quê nghèo,
như cha tôi, ông tôi mà thôi. Hướng về Tổ quốc, tôi thật sự mừng vui khi
đất nước phát triển và tôi chạnh buồn khi đất nước gặp khó khăn. Những
ngày qua, khi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được công bố, đọc trên
internet tôi thấy có một số người ở trong và ngoài nước mượn danh "yêu
nước", "vì dân tộc" để công bố ý kiến trên các báo ở hải ngoại và blog
của cá nhân, từ đó dấy lên một làn sóng xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ
Ðảng, Nhà nước, chế độ xã hội ở Việt Nam.
Tôi thấy, một trong các tâm điểm các bài viết họ đăng tải là tập trung
chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam (ÐCS
Việt Nam) đã được ghi trong Hiến pháp. Tôi rút ra nhận xét là: Trước khi
đề cập đến vấn đề "đa nguyên, đa đảng" ở Việt Nam, tác giả của các bài
viết này thường "dạo nhạc" trước bằng cách hết lời ngợi khen nền dân chủ
phương Tây, họ cho rằng, xã hội các nước phương Tây, với "đỉnh cao" là
Mỹ, là "chuẩn mực" về dân chủ. Họ còn cho rằng, về mặt xã hội, chỉ có
"đa nguyên, đa đảng" mới thật sự có dân chủ; ngược lại, xã hội duy trì
theo cơ chế độc đảng lãnh đạo sẽ dẫn đến mất dân chủ, "độc tài", "đảng
trị"!?
Dù sống xa Tổ quốc, nhưng tôi vẫn thường xuyên cập nhật tình hình quê nhà, nên không lạ gì ý kiến mà
họ đưa ra, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, đó vẫn là sự phủ
nhận vai trò lãnh đạo của ÐCS Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân
tộc. Có bài viết làm ra vẻ khách quan với vỏ bọc "đóng góp ý kiến",
"lời nói tâm huyết", như: bài học của tất cả các quốc gia trên thế giới
không phân biệt chế độ chính trị, nếu nhân dân mất lòng tin vào chính
quyền sẽ mất tất cả; Ðảng có công lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc
lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhưng hiện nay "đã hết vai trò lịch
sử" nên cần phải "trao lại cái quyền đó cho nhân dân" (?!)...
Họ còn lớn tiếng hô hào đòi bỏ Ðiều 4 của Hiến pháp quy định ÐCS Việt
Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Lợi dụng việc ÐCS Việt Nam
công khai tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống tệ quan
liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác, họ tìm mọi cách tô vẽ,
thổi phồng những sai lầm, khuyết điểm, gieo rắc hoài nghi, tâm lý bất
mãn, bất bình trong nhân dân, với mục đích gây mâu thuẫn, chia rẽ nhân
dân với Ðảng. Núp dưới chiêu bài đấu tranh cho "dân chủ", "tự do", "công
bằng xã hội", họ còn thành lập tổ chức trên internet để tập hợp, lôi
kéo, phát triển lực lượng để chống lại Ðảng và Nhà nước Việt Nam.
Từ
một số viện dẫn, lập luận trên, tôi thấy họ đã cố tình "đánh lận con
đen". Họ không thấy rằng, trong tất cả các nền dân chủ hiện đại bao giờ
cũng có đảng chính trị lãnh đạo, cầm quyền. Sự khác nhau chỉ là ở mục
tiêu, phương thức lãnh đạo mà thôi. Ở Mỹ, Ðảng Dân chủ và Ðảng Cộng hòa
thay nhau lãnh đạo. Ở Cộng hòa liên bang Ðức cũng như vậy, Ðảng dân chủ
Thiên chúa và Ðảng dân chủ xã hội thay nhau cầm quyền. Còn ở Australia
là vai trò của Ðảng Lao động và Liên Ðảng quốc gia - tự do... Vậy tôi
xin được hỏi "các nhà dân chủ", những người đang lớn tiếng tự nhận là
"người yêu nước" ở trong và ngoài nước là: Nếu các vị sống ở Mỹ, Ðức,
Australia thì các vị có thể gân cổ phê phán chế độ đó không dân chủ hay
không?
Theo nhận thức của tôi, về pháp lý, vai trò lãnh đạo của ÐCS Việt Nam đã
được quy định tại Ðiều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992
là hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế. Ðiều 1, Công ước quốc tế về
các quyền Dân sự và Chính trị (năm 1966) ghi rõ: "Tất cả các quốc gia
đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết
định thể chế chính trị của mình, tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn
hóa". Chúng ta hiểu điều này có nghĩa là: việc lựa chọn chế độ chính
trị nào (thể chế tam quyền phân lập hay phân công phối hợp có sự giám
sát của nhân dân, CNTB hay CNXH) và việc có ghi rõ điều đó vào Hiến pháp
hay không hoàn toàn là quyền của mỗi dân tộc, không ai có quyền can
thiệp, kể cả Liên hợp quốc. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của ÐCS Việt Nam
được Quốc hội quyết định ghi vào Hiến pháp là văn bản hóa vai trò lãnh
đạo, cầm quyền của Ðảng.
Hiệu
quả hoạt động của chính quyền chính là thước đo hiệu quả sự lãnh đạo
của Ðảng. Ðiều lệ ÐCS Việt Nam khẳng định: "Ðảng Cộng sản Việt Nam là
đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và
lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Ðảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Ðảng lãnh đạo, tôn
trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội". Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị
Việt Nam được xác định là: "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ"; theo tôi hiểu, Ðảng lãnh đạo Nhà nước song không điều hành
thay Nhà nước; Nhà nước quản lý xã hội nhưng không xa rời sự lãnh đạo
của Ðảng. Trong lịch sử chúng ta đều biết, chính phủ đầu tiên của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh lập nên vốn đa đảng. Nhưng trên
thực tế của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sau đó là chống đế
quốc Mỹ, chỉ ÐCS Việt Nam mới có đủ khả năng tập hợp lực lượng, trở
thành hạt nhân của khối đoàn kết dân tộc, và đã "đứng mũi chịu sào" với
bao nhiêu hy sinh to lớn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước.
Vì vậy, đối với đại đa số nhân dân trong nước, ÐCS Việt Nam hiện thân
cho quyền lực chính đáng từ trong lịch sử, và lúc này ÐCS Việt Nam đang
nỗ lực tăng cường tính chính thống của mình, thông qua nỗ lực tìm ra con
đường đúng đắn để phát triển đất nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải
thiện cuộc sống của mọi người dân, nghĩa là tạo nên sự hài hòa giữa các
lợi ích, cũng như các tầng lớp xã hội. Kết quả là đã thấy rõ: Việt Nam
đứng thứ hai ở châu Á về tốc độ tăng trưởng GDP. Trước những khó khăn
của đất nước trong cơn lốc suy thoái kinh tế toàn cầu, trước các hạn
chế, yếu kém trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội mà ÐCS Việt Nam và
Nhà nước Việt Nam đang phải đối mặt, lẽ ra một số người tự xưng là "tâm
huyết với đất nước" cần đồng tâm, đồng lòng cùng Ðảng và Nhà nước vượt
qua khó khăn. Nhưng đáng tiếc là họ không làm như vậy mà lại thi nhau
kêu gào trên các diễn đàn của internet, rồi rùm beng trên BBC, VOA, RFA,
RFI... đổ hết mọi lỗi lầm cho Ðảng, rằng: Ðảng là nguồn gốc của mọi
"bất ổn xã hội", của quan liêu, tham nhũng và "phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân"... Từ đó họ kích động đấu tranh cho "đa nguyên về chính
trị, đa đảng đối lập"!
Lập
luận của họ đưa ra có thể làm phân tâm, gây hoài nghi đối với một số
người còn thiếu thông tin, chưa hiểu biết nhiều, còn với tuyệt đại đa số
quần chúng nhân dân, bản chất của vấn đề vẫn luôn được nhận thức đúng
đắn. Rốt cuộc, điều mà những người đang lớn tiếng kia chỉ là muốn loại
trừ vai trò lãnh đạo của ÐCS Việt Nam mà thôi, và không cần phải phân
tích những nội dung sai trái trong từng lập luận của họ cũng thấy rõ ý
kiến của họ là gì. Bởi vì, mọi người có thể thấy rõ tất cả những lập
luận trên chỉ là thứ tư duy chính trị dân chủ đa nguyên mà mấy chục năm
qua, các phần tử "hành nghề chống cộng cực đoan" sử dụng ở ngoài nước,
như ở nước Mỹ.
Tôi biết quan niệm của ÐCS Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về dân chủ khác
biệt về bản chất so với quan điểm của "các nhà dân chủ", "người yêu
nước" theo lập trường phương Tây. Dân chủ của nhân dân Việt Nam là dân
chủ XHCN, thuộc về nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của ÐCS Việt Nam -
đại diện chân chính cho quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và cả dân tộc Việt Nam. Hơn 80 năm qua, ÐCS Việt Nam đã lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhưng trong
Cương lĩnh của mình, Ðảng cũng khẳng định rõ, Ðảng không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của nhân dân lao động và toàn xã hội. Thử hỏi nếu
không có ÐCS Việt Nam, những người đang lớn tiếng kêu gọi "bỏ Ðiều 4 ra
khỏi Hiến pháp" đã trưởng thành từ đâu, được đào tạo dưới chế độ xã hội
nào, khi nói lên ý kiến như vậy, họ không thấy bứt rứt trong lương tâm
hay sao?
Dưới
sự lãnh đạo của ÐCS Việt Nam, sự nghiệp đổi mới đất nước hướng tới mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" đã giúp cho mọi
người dân thuộc các thành phần kinh tế đều được tạo điều kiện phát huy
quyền làm chủ của mình thông qua Nhà nước pháp quyền XHCN - nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Cho nên hoàn toàn không cần tới cơ chế "đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập". Lý luận và thực tiễn đều bác bỏ
những vu cáo, bịa đặt về vai trò lãnh đạo của ÐCS Việt Nam, đồng thời
cũng trực tiếp khẳng định các luận điệu tuyên truyền "đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập" ở Việt Nam thực chất chỉ nhằm thực hiện mục tiêu
chính trị đen tối của các thế lực đang có tham vọng đi ngược lại xu thế
phát triển tất yếu của đất nước. Sự thật trước sau vẫn là sự thật. Không
ai có thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam! Quá khứ
và hiện tại đã khẳng định chân lý đó.
Việc làm của mấy người mượn danh "yêu nước", tự coi mình "có trách nhiệm
với dân tộc" không đánh lừa được những người yêu nước chân chính và có
trách nhiệm thật sự đối với dân tộc. Tôi nghĩ, để đưa đất nước và dân
tộc đến mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh",
nhân dân trong nước cần thống nhất, đồng thuận cùng ÐCS Việt Nam tiếp
tục phấn đấu trên con đường mới. Sự nghiệp đổi mới đang còn nhiều khó
khăn, thách thức. Muốn đạt được các mục tiêu đã đề ra phải có những nỗ
lực vượt bậc của toàn dân tộc và nhân dân Việt Nam càng tin tưởng vào
trí tuệ, bản lĩnh lãnh đạo của Ðảng, vào sự đoàn kết, nhất trí của toàn
dân dưới ngọn cờ vinh quang của ÐCS Việt Nam. Dù ở nước ngoài, tôi vẫn
tin như vậy, bằng chứng thuyết phục nhất đối với tôi là sự phát triển
thần kỳ của đất nước mà tôi đã được chứng kiến sau mỗi lần về thăm quê
hương. Dù ở xa Tổ quốc, tôi vẫn cố gắng góp phần nhỏ bé của mình cả về
vật chất và tinh thần. Tôi hy vọng Báo Nhân Dân sẽ cho đăng bài này, vì
đó là tấm lòng của một người con luôn gắn bó với quê hương, đất nước./.
Theo VOV
Thường trực Tỉnh ủy gặp mặt văn nghệ sỹ nhân dịp đầu xuân Quý Tỵ 2013
Đồng chí Hoàng Văn Chất trao hoa và quà cho các văn nghệ sỹ tiêu biểu năm 2012.
Tới
dự có đồng chí Hoàng Văn Chất, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch
HĐND tỉnh, các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, lãnh đạo một số
sở, ban, ngành và gần 100 văn nghệ sỹ.
Tại
buổi gặp mặt, đồng chí Hoàng Văn Chất, đã biểu dương những cố gắng nỗ
lực của đội ngũ văn nghệ sỹ tỉnh nhà luôn vững vàng về tư tưởng, chính
trị, phát huy truyền thống đoàn kết, say mê lao động nghệ thuật, sáng
tác nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị. Đồng thời góp phần
quan trọng vào việc bồi dưỡng lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức, tình
cảm, cảm thụ thẩm mỹ cho con người, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu sáng tạo,
hưởng thụ văn hóa ngày càng tăng của nhân dân, nhất là trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Đồng chí nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đang diễn ra sôi động, mạnh mẽ, phong phú. Đó là
những điều kiện thuận lợi, song cũng đặt ra những thách thức mới đối với
các văn nghệ sỹ, Tỉnh ủy luôn mong muốn các văn nghệ sỹ phát huy cao
trách nhiệm công dân, trách nhiệm nghệ sỹ - chiến sỹ trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa, sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị phục vụ sự nghiệp
CNH - HĐH tỉnh nhà.
Hà Bắc
Giám sát thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng
Đoàn giám sát kiểm tra công trình hồ thủy lợi Tho Noóng, xã Mường Giàng (Quỳnh Nhai)
Tham dự có đồng chí Cà Thị Thỏa, Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh.
Tại
các điểm giám sát, Đoàn đã tập trung làm rõ những kết quả, vướng mắc,
nguyên nhân tồn tại, nhất là việc vi phạm về Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trong sử dụng ngồn vốn trái phiếu chính phủ cho đầu tư
xây dựng cơ bản giai đoạn 2006-2012.
Đối
với huyện Quỳnh Nhai đã thực hiện 59 dự án, đến hết năm 2012, đã đưa
vào sử dụng 42 dự án với 150 phòng học và 17 dự án với 76 phòng công vụ
giáo viên. Tổng mức đầu tư điều chỉnh hơn 77,2 tỷ đồng, trong đó, vốn
trái phiếu chính phủ hơn 72,1 tỷ đồng; đã giải ngân thanh toán trên 67,2
tỷ đồng. Các dự án được triển khai đúng kế hoạch, đầu tư tập trung hoàn
thành dứt điểm, không để nợ đọng. Tuy nhiên, vẫn để xảy ra sai sót,
35/59 dự án có sai phạm với trên 500 triệu đồng; việc lập quy hoạch, kế
hoạch chưa sát với thực tế, hạn chế trong việc quản lý.
Đối
với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh được giao làm chủ đầu tư 5 dự án đầu tư
xây dựng cơ bản từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ với tổng mức đầu tư
hơn 18,5 tỷ đồng, đã giải ngân giá trị nghiệm thu hơn 15,2 tỷ đồng. Các
dự án đầu tư đảm bảo đúng tiến độ, không để nợ đọng, phát huy tác dụng
tạo điều kiện cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh đồng bào dân
tộc thiểu số. Tuy nhiên, còn hạn chế trong khâu lập quy hoạch, kế hoạch
chưa sát với thực tế, bất cập trong khâu quản lý đầu tư xây dựng, cả 5
dự án đều vi phạm làm thất thoát, lãng phí hơn 240 triệu đồng.
Sở
Y tế tỉnh được giao chủ đầu tư 1 dự án Bệnh viện Tâm thần với tổng mức
đầu tư trên 68,4 tỷ đồng. Dự án đảm bảo tiến độ, đúng luật định về thi
hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngồn vốn
trái phiếu chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản. Đến nay, khối lượng
hoàn thành đạt 56,7 tỷ đồng, tuy nhiên vốn được phân bổ mới được hơn
30,4 tỷ đồng.
UBND
huyện Quỳnh Nhai, Sở Giáo dục và Đào tạo kiến nghị Chính phủ, UBND tỉnh
tiếp tục bố trí vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015. Trong đó,
huyện Quỳnh Nhai kiến nghị điều chỉnh 315 phòng học và phòng công vụ
giáo viên chưa triển khai; bổ sung 322 phòng theo nhu cầu thực tế. Sở Y
tế tỉnh kiến nghị Chính phủ, UBND tỉnh quan tâm phân bổ vốn để dự án
triển khai đảm bảo đúng tiến độ.
Phạm Đức
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy thăm và làm việc tại xã Háng Đồng
Đồng chí Trương Quang Nghĩa kiểm tra tiến độ làm nhà bán trú cho học sinh trường PTCS Háng Đồng
Đồng
chí Trương Quang Nghĩa đã đến thăm thầy và trò trường PTCS Háng Đồng,
kiểm tra tiến độ xây dựng nhà bán trú cho học sinh, mặt bằng xây dựng
trụ sở xã. Tiếp đó, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy cùng đoàn công tác đã làm
việc với Thường trực Đảng ủy, HĐND, UBND xã Háng Đồng, nghe lãnh đạo xã
báo cáo khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh từ khi được tách từ xã Tà Xùa vào năm 2008 đến nay. Toàn xã có 6
bản, 330 hộ dân, với địa hình có độ dốc lớn, bị chia cắt bởi nhiều núi
cao, khe suối, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa
mưa; thời tiết khí hậu khắc nghiệt, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào
thiên nhiên. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt 455 ha, tổng đàn gia
súc hơn 2.000 con, gần 5.000 con gia cầm và khoanh nuôi bảo vệ hơn
7.000 ha rừng, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo
chiếm 63,3%. Thường trực Đảng
ủy, UBND xã kiến nghị với tỉnh tiếp tục quan tâm đầu tư hỗ trợ cây trồng
vật nuôi, chuyển hướng sản xuất xóa bỏ cây thuốc phiện; kiên cố hóa
trường lớp học, nhà công vụ giáo viên; tăng cường vốn, đẩy nhanh tiến độ
thi công tuyến giao thông Tà Xùa - Háng Đồng; triển khai đầu tư đồng bộ
khu hành chính xã gồm: trụ sở làm việc, nhà văn hóa, trạm y tế, trường
học; đưa điện lưới quốc gia đến trung tâm xã và các bản trong xã, quan
tâm xây dựng xây dựng đường giao thông liên bản, công trình nước sinh
hoạt, nhà văn hóa bản…
Phát
biểu tại buổi làm việc, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đánh giá cao sự nỗ lực,
cố gắng của của Đảng bộ và nhân dân xã Háng Đồng thời gian qua. Đồng
thời, đề nghị các sở, ngành liên quan và huyện Bắc Yên làm việc với các
nhà thầu để đẩy nhanh tiến độ xây dựng tuyến đường giao thông Tà Xùa -
Háng Đồng, đảm bảo giao thông đi lại cho bà con; tập trung đầu tư các
công trình thủy lợi, nước sinh hoạt, phục vụ sản xuất, khai hoang ruộng
bậc thang và cuộc sống của nhân dân; lựa chọn cây trồng, vật nuôi thích
hợp giúp dân ổn định cuộc sống; làm tốt công tác quy hoạch xây dựng các
công trình xây dựng trụ sở xã, trường học, trạm y tế... chăm lo cuộc
sống cho các em học sinh, nhất là học sinh bán trú, tạo điều kiện tốt
nhất cho các cháu học tập.
Tin, ảnh: Việt Anh
SEOM bàn nhiều nội dung quan trọng trước thềm AEM 19
Các
Quan chức kinh tế cấp cao ASEAN chụp ảnh tại cuộc họp SEOM trù bị thể
hiện sự đoàn kết, thống nhất vì mục tiêu chung đã đặt ra.
Hôm
nay (7/3), Hội nghị Quan chức kinh tế cấp cao ASEAN (SEOM) trù bị cho
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 19 đã được tổ chức tại Hà
Nội.
Đây là hội nghị nhằm chuẩn bị nội dung cho Hội nghị AEM-sự kiện thường
niên quan trọng của Trụ cột kinh tế ASEAN – sẽ diễn ra ngày mai (8/3).
Hội nghị có sự tham dự của đoàn đại biểu 10 nước ASEAN và Ban Thư ký
ASEAN. Đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị do Bộ Công thương làm Trưởng đoàn.
Tại
Hội nghị, các Quan chức kinh tế cấp cao ASEAN đã thảo luận tình hình
thực hiện lộ trình tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint) vào năm 2015,
các sáng kiến hợp tác kinh tế quan trọng của ASEAN năm 2013 và thống
nhất các nội dung sẽ được báo cáo lên các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN. Đồng
thời, Hội nghị cũng đã rà soát các tài liệu sự kiến sẽ được Bộ trưởng ký
kết và thông qua nhân dịp sự kiện này.
Đây
là một trong các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế
ASEAN lần thứ 19 và các hội nghị liên quan diễn ra trong các ngày
6-9/3/2013 tại Hà Nội.
Đối
với Việt Nam, ASEAN là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu về
thương mại và đầu tư. ASEAN hiện là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn
thứ ba của các doanh nghiệp Việt Nam và là đối tác thương mại cung cấp
nguồn hàng hóa lớn thứ hai cho các doanh nghiệp Việt Nam. Kim ngạch xuất
– nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN năm 2012 đạt hơn 38 tỷ USD.
Theo
chương trình của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 19
ngoài sự tham dự của 10 Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, Tổng Thư ký ASEAN, Cao
ủy thương mại EU còn có khoảng 600 đại diện của giới doanh nghiệp,
nghiên cứu và các cơ quan truyền thông, báo chí của ASEAN và EU.
Hội
nghị AEM 19 là một trong những hoạt động cụ thể hóa chính sách chủ
động, tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) của Việt
Nam. Hội nghị là dịp để các Bộ trưởng thảo luận, trao đổi về các sáng
kiến quan trọng nhằm tăng cường hợp tác kinh tế trong khu vực và đề ra
những định hướng hội nhập kinh tế ASEAN trong năm 2013 nhằm hướng đến
mục tiêu thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.
Cũng
trong khuôn khổ AEM 19, Hội nghị Tham vấn các Bộ trưởng kinh tế ASEAN
và Cao ủy thương mại EU lần thứ 12 cũng sẽ được tổ chức. Hội nghị sẽ
thảo luận về các chương trình, sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế
và quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai khu vực. Việt Nam hiện là nước
điều phối hợp tác kinh tế ASEAN-EU trong ASEAN./.
Theo VOV
Sơn La là tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125 km2 chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Toạ độ địa lý: 20039’ - 22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ - 105002’ kinh độ Đông. Địa giới: phía bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu; phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía tây giáp với tỉnh Điện Biên; phía nam giáp với tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Huaphanh (Lào); phía Tây Nam giáp tỉnh Luangprabang (Lào). Sơn La có đường biên giới quốc gia dài 250 km, chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km. Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành chính (1 thành phố, 10 huyện) với 12 dân tộc.
Mục lục
|
Lịch sử
Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay (gồm thành phố Sơn La, huyện Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu) trước năm 1479 là lãnh thổ của vương quốc Bồn Man (gồm Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An, Quan Hoa, Quan Sơn, Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phan của Lào và phần lớn Sơn La).[cần dẫn nguồn] Năm 1479 Sơn La chính thức được sát nhập vào Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa- 24 tháng 5 năm 1886: thành lập châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá), tách từ tỉnh Hưng Hóa thành cấp tương đương với tỉnh. Tên thiếu tá De Chateaurochet làm Phó công sứ Sơn La
- 9 tháng 9 năm 1891 thuộc Đạo Quan binh 4.
- 27 tháng 2 năm 1892: thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ và 8 châu.
- 10 tháng 10 năm 1895: thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (tức Tạ Bú).
- 23 tháng 8 năm 1904: đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ chuyển về nơi ngày nay là thành phố Sơn La. Tên công sứ Pháp đầu tiên là Jeanmont Perat, năm 1907 ông ta cho xây dựng nhà tù Sơn La. Năm 1917, công sứ Pháp Laumet mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 1933, tên công sứ khét tiếng tàn ác Saint Poulot bị đầu độc chết trong cuộc chiến đấu đòi vượt ngục của tù nhân ở Sơn La. Năm 1939, công sứ Cousseau lên thay, tàn ác với tù nhân Sơn La. Năm 1944, Robert thay ông ta làm công sứ Sơn La và cai trị đến tận năm 1945.
- Sau năm 1946, tỉnh Sơn La cùng với hai tỉnh Lai Châu và Phong Thổ (do Pháp lập ra) lập thành "Xứ Thái tự trị”nằm dưới sự chỉ đạo của Pháp. Bạc Cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.
- 1948-1953: thuộc Liên khu Việt Bắc. Lúc này tỉnh Sơn La có 6 huyện: Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu.
- 1953-1955: thuộc Khu Tây Bắc
- 1955-1962: bỏ cấp tỉnh, thuộc Khu tự trị Thái Mèo.
- 1962-1975: tái lập tỉnh, thuộc Khu tự trị Tây Bắc (đổi tên từ Khu tự trị Thái Mèo), có 7 huyện: thêm huyện Quỳnh Nhai và Sông Mã, còn huyện Phù Yên chuyển sang tỉnh Nghĩa Lộ mới thành lập.
- Sau khi giải thể Khu tự trị Tây Bắc, tỉnh Sơn La nhập thêm 2 huyện của tỉnh Nghĩa Lộ giải thể là Phù Yên và Bắc Yên.
Địa hình
Nằm cách Hà Nội 320 km trên trục Quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, Sơn La là một tỉnh nằm sâu trong nội địa. Tỉnh này có 2 cửa khẩu quốc gia với Lào là Chiềng Khương và Pa Háng. Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, có 2 cao nguyên Mộc Châu và Sơn La - Nà Sản, địa hình tương đối bằng phẳng. Cùng với các tỉnh Hoà Bình, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La là mái nhà của đồng bằng Bắc Bộ.Dân số
Theo cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, tỉnh Sơn La có 1.080.641 người.Khí hậu
Sơn La có khí hậu cận nhiệt đới ẩm vùng núi, mùa đông phi nhiệt đới lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm.Thống kê nhiệt độ trung bình năm của Sơn La có xu hướng tăng trong 20 năm lại đây với mức tăng 0,5 °C - 0,6 °C, nhiệt độ trung bình năm của Thành phố Sơn La hiện ở mức 21,1 °C, Yên Châu 23 °C; lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm (thành phố hiện ở mức 1.402 mm, Mộc Châu 1.563 mm); độ ẩm không khí trung bình năm cũng giảm. Tình trạng khô hạn vào mùa đông, gió tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa mưa (tháng 3-4) là yếu tố gây ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp của tình. Sương muối, mưa đá, lũ quét là yếu tố bất lợi.
Các đơn vị hành chính
Sơn La có 1 thành phố và 10 huyện:- Thành phố Sơn La: 7 phường và 5 xã.
- Quỳnh Nhai: 11 xã
- Mường La: 1 thị trấn và 15 xã
- Thuận Châu: 1 thị trấn và 28 xã
- Phù Yên: 1 thị trấn và 26 xã
- Bắc Yên: 1 thị trấn và 15 xã
- Mai Sơn: 1 thị trấn và 21 xã
- Sông Mã 1 thị trấn và 18 xã
- Yên Châu: 1 thị trấn và 14 xã
- Mộc Châu: 2 thị trấn và 27 xã
- Sốp Cộp: 8 xã
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét