Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

chim trĩ giống , bán chim trỉ thịt gia re , công trĩ đỏ, xanh , bảy 7 màu cung cấp ở tại quảng bình , ban chim tri thit , cung cap chim tri giong o tai quang binh giá rẻ , quangbinh

Tỉnh Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam, với diện tích tự nhiên 8.065 km2, dân số năm 2011 có 853.004 người.
Thành phố Đồng Hới hôm nay
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý ở phần đất liền là:
• Điểm cực Bắc: 18005’ 12" vĩ độ Bắc
• Điểm cực Nam: 17005’  02" vĩ độ Bắc
• Điểm cực Đông: 106059’ 37" kinh độ Đông
• Điểm cực Tây: 105036’ 55" kinh độ Đông
Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km ở phía Đông và có chung biên giới với Lào 201,87 km ở phía Tây, có cảng Hòn La, cảng Hàng không Đồng Hơi, Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 12 và tỉnh lộ 20, 16 chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác nối liền với Nước CHDCND Lào.
Địa hình: Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% Tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển.
Khí hậu: Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
+ Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.
+ Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24oC - 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Tài nguyên đất: Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích.
Tài nguyên động, thực vật: Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như Voọc Hà Tĩnh, Gấu, Hổ, Sao La, Mang Lớn, Gà Lôi lam đuôi trắng, Gà Lôi lam mào đen, Trĩ...
Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên 447.837 ha, rừng trồng 38.851ha, trong đó có 17.397 ha rừng thông, diện tích không có rừng 146.386 ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31triệu m3.
Đêm Đồng Hới
Tài nguyên biển và ven biển: Quảng Bình có bờ biển dài 116,04 km với 5 cửa sông, trong đó có hai cửa sông lớn, có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng Hòn La, Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km2, có độ sâu trên 15 mét và xung quanh có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có thể cho phép tàu 3-5 vạn tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện tích khá rộng (trên 400 ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu. 
Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển.
Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Với 5 cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản khá lớn. Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 10-15km giao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất khẩu. Chế độ bán nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các ao nuôi tôm cua.
Tài nguyên nước: Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 - 1,1 km/km2. Có năm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hoà, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích ước tính 243,3 triệu m3.
Tài nguyên khoáng sản: Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Có suối nước khoáng nóng 105oC. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công nghiệp khai thác và chế tác vàng.
Đồng bào Vân Kiều chăm sóc lạc
Dân số và lao động: Dân số Quảng Bình năm 2011 có 853.004 người. Phần lớn cư dân địa phương là người Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hoá và Minh Hoá và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Dân cư phân bố không đều, 84,85% sống ở vùng nông thôn và 15,15% sống ở thành thị.
Văn hoá và tiềm năng du lịch: Dãi đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, cửa biển Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới.
Quảng Bình là vùng đất văn vật, có di chỉ văn hoá Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hoá Hoà Bình và Đông Sơn, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hoá nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như “Bát danh hương”: “Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp..
Vùng đất Quảng Bình trong tiến trình lịch sử

Theo dòng chảy lịch sử, mảnh đất Quảng Bình xuất hiện ngày càng nhiều cá nhân đột khởi trong nhiều lĩnh vực; nhiều làng xã, dòng họ nổi tiếng trở thành chỗ dựa tin cậy cho các vương triều và nhiều lúc là cho cả vận mệnh dân tộc, quê hương...
Đó là trạng nguyên thời kỳ đầu của khoa bảng Quảng Bình là Trương Xán khi mới 29 tuổi và tiếp theo thời kỳ nào cũng có người có tên trong danh lục khoa bảng Việt Nam, đã có gần 50 người đỗ đại khoa, trong đó có 1 trạng nguyên, 27 tiến sĩ, 19 phó bảng và hàng trăm người đỗ cử nhân. Trong danh sách 49 vị đại khoa ghi nhận là được có nhiều gia đình, dòng họ có nhiều người đỗ đạt; Khai quốc công thần như Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, các nhà trước tác, học thuật nổi tiếng như cụ Huỳnh Côn; các thế gia vọng tộc như gia tộc thành đạt như họ Trần Đăng, họ Nguyễn Hữu, là họ Nguyễn Duy, họ Trần Khắc...; có rất nhiều danh sỹ nổi tiếng như Dương Văn An, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Kinh Chi... Tài năng trước thuật và tài thao lược quân sự như Lê Sỹ, Hoàng Kế Viêm, Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân, Mai Lượng... cho đến các tướng lĩnh thời hiện đại như Hoàng Sâm, Võ Nguyên Giáp... kế thừa và phát huy trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Quảng Bình cũng là cái nôi lớn của văn hào đi tiên phong trong nhiều lĩnh vực, như Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Quách Xuân Kỳ...
Truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng như một dòng chảy xuyên suốt trong tiến trình lịch sừ của vùng đất Quảng Bình, càng được thăng hoa hơn từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc: Quảng Bình thuộc Bộ Việt Thường.
Theo thư tịch và truyền thuyết, đất nước thời Văn Lang - Âu Lạc có 15 bộ tộc Lạc Việt sinh sống, chủ yếu ở miền Trung du và Châu thổ sông Hồng. Nhà nước Văn Lang được thành lập trên cơ sở thống nhất các bộ lạc Lạc Việt do nhu cầu phát triển đất nước và chống ngoại xâm. Trong các bộ lạc Lạc Việt có bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả và thủ lĩnh Văn Lang đóng vai trò lịch sử đứng ra thành lập nhà nước Văn Lang. Người đứng đầu nhà nước Văn Lang gọi là Hùng Vương và các đời vua kế tiếp đều mang danh hiệu đó. Lãnh thổ của nước Văn Lang là miền Bắc nước ta hiện nay. Theo sự phân chia bộ lạc dưới thời Văn Lang, Quảng Bình thuộc bộ Việt Thường, vốn dĩ tồn tại trong khu vực đã từng có sách chép là Việt Thường Thị - một tổ chức hành chính Nhà nước sơ khai có địa vực tương đồng với toạ độ địa lý của Bắc Trung Bộ hiện nay.
Theo kết quả nghiên cứu khảo cổ học, điểm cực Nam phát hiện được các di tích văn hóa đồ đồng Lạc Việt lan rộng đến lưu vực Sông Gianh. Chính vì thế, phạm vi phân bố của văn hóa đồ đồng ở miền Bắc, xét đại thể, chính là tương đương với khu vực của nước Văn Lang. Bấy giờ cư dân Văn Lang trên địa vực Quảng Bình đã biết kế thừa và phát huy những thành tựu văn hóa của các thời kỳ trước để bước vào thời kỳ đồng thau nhằm mục đích phát triển kinh tế, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi. Bước vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn, ở Quảng Bình tìm thấy nhiều loại vũ khí như mũi tên, rìu, lưỡi giáp, dao găm bằng đồng; nhiều loại công cụ đồ dùng sinh hoạt như thạp đồng, thố đồng và cả trống đồng ở nhiều di chỉ khảo cổ khác nhau như Cồn Nền, Phù Lưu, Hóa Hợp... Kinh tế nông nghiệp dưới thời đại đồ đồng đã có bước phát triển, đời sống tinh thần của cư dân phong phú hơn. Với các loại trang sức đa dạng về chủng loại, chất liệu, hoa văn, chứng tỏ cư dân ở đây đã chú ý đến cuộc sống tinh thần, thị hiếu thẩm mỹ cũng như nhiều nơi khác của nước Văn Lang có chung bản sắc văn hoá thời đại Hùng Vương. Tuy vậy, do điều kiện địa lý đặc thù, cư dân sinh sống trên vùng đất Việt Thường ở phía Nam của nước Văn Lang có những sắc thái văn hóa riêng.
Trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam ngày nay, bên cạnh các bộ tộc Lạc Việt, còn có các bộ tộc Âu Việt và nhiều bộ tộc khác cùng nhau chung sống. Nước Văn Lang vào cuối thế kỷ III trước Công nguyên, kinh tế đã phát triển hơn trước, dân số đông hơn và lãnh thổ được mở rộng. Đó cũng là thời kỳ phong kiến phương Bắc có bước phát triển mới. Nhà Tần thống nhất được toàn Trung Quốc, âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược xuống phía Nam thực hiện tư tưởng ’’bình thiên hạ’’. Trước tình hình đó, sự tồn tại đơn độc của từng bộ tộc không đủ sức đối phó với nạn ngoại xâm. Trên cơ sở kinh tế phát triển và do nhu cầu chống xâm lược phương Bắc, cũng như nhu cầu của trị thủy, sự hợp nhất giữa các bộ tộc gần nhau về địa vực, dòng máu và trình độ phát triển kinh tế văn hóa là một nhu cầu tất yếu khách quan. Đó là cơ sở của sự hợp nhất giữa hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt dẫn đến sự ra đời của nhà nước Âu Lạc.  
Thực hiện ý đồ bành trướng xâm lược, nhà Tần đã tổ chức nhiều cuộc chiến tranh đánh phá xuống phía Nam và đã chiếm được một số đất đai của các dân tộc phía Nam sông Trường Giang nhưng khi đánh vào nước Âu Lạc đã bị quân dân Âu Lạc anh dũng đánh trả. Hàng vạn quân Tần bị tiêu diệt, chủ tướng Đồ Thư bị giết. Nhân dân Âu Lạc đã bảo vệ nền độc lập của mình.
Quảng Bình trong thời thống trị của phong kiến phương Bắc
Năm 207 trước Công nguyên, Triệu Đà, một viên quan nhà Tần chiếm ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Lâm (Trung Quốc) lập nên nước Nam Việt và xưng vương. Sau khi lập nước Nam Việt, Triệu Đà nhiều lần phát động chiến tranh xâm lược nước Âu Lạc song đều thất bại. Biết không thể thắng về mặt quân sự, Triệu Đà cho con là Trọng Thủy kết hôn với Mỵ Châu, con gái của An Dương Vương và ở rể tại Âu Lạc. Chính trong thời gian đó Trọng Thủy đã điều tra nắm tình hình và học cách phá nỏ, một loại vũ khí lợi hại của người Âu Lạc và cho quân tiến đánh. Nước Âu Lạc mất vào tay Triệu Đà và khoảng năm 179 trước Công nguyên. Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà sáp nhập và nước Nam Việt và chia Âu Lạc làm hai quận là Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Bắc Trung bộ). Như vậy trong thời kỳ Triệu Đà thống trị, vùng đất Quảng Bình thuộc quận Cửu Chân.
Thời thuộc Hán và các triều đại phong kiến phương Bắc kế tiếp, địa bàn Quảng Bình thuộc quận Nhật Nam.
Quận Nhật Nam là vùng đất phía Nam quận Cửu Chân mà cực giới của Cửu Chân là Hoành Sơn. Vì vậy, vùng đất Quảng Bình nằm phía Bắc của quận Nhật Nam.
Quận Nhật Nam có địa phận trải dài về phía Nam và được chia ra làm nhiều huyện. Các nhà nghiên cứu cho rằng vùng đất Quảng Bình ngày nay thuộc huyện Tây Quyển và huyện Tỷ Ảnh. Huyện Tây Quyển ở lưu vực sông Gianh, huyện Tỷ Ảnh ở lưu vực sông Nhật Lệ.
Cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III, nhà nước phong kiến Đông Hán ở Trung Quốc tan rã, phong kiến phương Bắc diễn ra cục diện ’’Tan quốc’’, quyền thống trị nước ta nằm trong tay Sỹ Nhiếp, sau đó lại lệ thuộc vào phong kiến nhà Ngô. Năm 280, nhà Tấn diệt Ngô tạm thời thống nhất Trung Quốc. Dưới thời nhà Tấn chúng đặt lại quận huyện tách đất Tây Quyển, đặt thêm huyện Thọ Linh (năm Thái Khang thứ 10), tách đất Tỷ Ảnh, đặt thêm huyện Vô Lao tương đương với miền Nam Quảng Bình ngày nay. Như vậy, dưới thời nhà Tấn Quảng Bình có 4 huyện: Tây Quyển, Thọ Linh nằm ở phía Bắc và Tỷ Ảnh, Vô Lao nằm ở phía Nam. Thực tế lúc này nhà nước Lâm Ấp đã được thành lập, ngay từ năm Chính thủy thứ 9 nhà Ngụy (248) nước Lâm Ấp đã tiến dần ra đến huyện Thọ Linh và lấy huyện này làm biên giới. Nhưng đến đời Thái Khang nhà Tấn đánh lui được Lâm Ấp lấy lại các huyện thuộc Nhật Nam. Từ đời Vĩnh Hòa về sau, vua Lâm Ấp lại nhiều lần đánh chiếm đất Nhật Nam và đòi lấy Hoành Sơn làm biên giới, nhưng nhà Tấn về cơ bản vẫn giữ được đất Nhật Nam phía Bắc Hải Vân. Tuy vậy, mặc dù nhà Tấn có đặt quận huyện ở miền đất từ Hải Vân ra đến Hoành Sơn nhưng không còn hoàn toàn ở trên đất của các huyện đời nhà Hán nữa.
Thời kỳ thuộc vương quốc Chăm Pa: Địa bàn Quảng Bình có 2 đơn vị hành chính là Bố Chính, Địa Lý
Cũng như ở hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân phía Bắc, nhân dân các bộ tộc ở quận Nhật Nam phía Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc bóc lột nặng nề. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 ở Giao Chỉ, nhân dân ở quận Nhật Nam không ngừng nổi dậy chống quân xâm lược giành lại quyền sống cho dân tộc mình, trung tâm của các cuộc khởi nghĩa là huyện Tượng Lâm. Nhân dân ở đây chủ yếu là người Chăm, vốn có truyền thống thượng võ và tinh thần quật cường đã nhiều lần nổi dậy chống lại ách thống trị của quân Nam Hán. Năm 100, nhân dân ở đây đã đứng dậy khởi nghĩa nhưng thất bại, chính quyền Đông Hán đã thi hành chính sách đàn áp cực kỳ dã man và thiết lập chế độ cai trị hà khắc. Cuối đời nhà Hán, nhân dân Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên nỗi dậy giết huyện lệnh rồi tự xưng làm vua lập nên nước Lâm Ấp. Nước Lâm Ấp sau này đổi tên là Hoàn Vương vào năm 749 và Chiêm Thành và năm 872. Mặc dù sau đó diễn ra nhiều cuộc chiến tranh giành giật vùng đất quận Nhật Nam xưa đoạn từ Hoành Sơn đến Hải Vân giữa các triều đại phong kiến Trung Quốc và vương quốc Lâm Ấp, nhưng về cơ bản vùng đất Quảng Bình sau thời kỳ thuộc Hán thuộc lãnh thổ của Lâm Ấp sau là Chiêm Thành. Sau khi mở rộng biên giới ra phía Bắc là Nam Hoành Sơn, nhận thấy đây là địa bàn xung yếu, là địa đầu của quốc thổ, các triều đại Chiêm Thành đã chăm lo xây dựng hệ thống đồn lũy trên đất Quảng Bình khá kiên cố. Điển hình là lũy Hoàn Vương được xây từ Đông sang Tây dưới chân Hoành Sơn làm chiến lũy trấn giữ đường tiến quân của các triều đại phong kiến Trung Quốc xuống phía Nam. Ngoài ra nhiều thành lũy được xây dựng khá kiên cố như thành Khu Túc, thành Nhà Ngô hiện còn nhiều dấu tích. Trong thời gian thuộc Chiêm Thành vùng đất Quảng Bình là Châu Bố Chính và Địa lý.
Quảng Bình thuộc quốc gia Đại Việt dưới các triều đại Lý, Trần, Lê
Dưới triều Lý là châu Bố Chính và Lâm Bình
Suốt 10 thế kỷ dưới ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, nhân dân các bộ tộc của nước Âu Lạc vẫn không ngừng đấu tranh giành độc lập dân tộc. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào những năm 40 của thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên là cuộc khởi nghĩa của Lương Long (178-181), Bà Triệu (248), tiếp đến là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí giành lại độc lập dân tộc và lập nên nước Vạn Xuân (544- 589). Tiếp đó các triều đại phong kiến Trung Quốc là nhà Tùy và nhà Đường lại đưa quân xâm lược áp đặt nên thống trị lại nước ta. Trong suốt ba thế kỷ bị nhà Đường đô hộ, nhân dân ta không ngừng nổi dậy chống lại ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Các cuộc khởi nghĩa lớn trong thời kỳ này có thể kể đến là cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722) Phùng Hưng (766-791), Dương Thanh (819-820). Cuối thế kỷ IX, triều đại Đường bước vào thời kỳ suy thoái, nạn cát cứ của các tập đoàn phong kiến phương Bắc nổi lên. Nắm lấy thời cơ đó, Khúc Thừa Dụ nổi lên đánh đuổi quân xâm lược, xây dựng chính quyền độc lập, kết thúc về cơ bản ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Năm 938, quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, quân dân ta đã đánh bại đội quân xâm lược trên sông Bạch Đằng bảo vệ nền độc lập trọn vẹn, chấm dứt hoàn toàn 1000 năm Bắc thuộc.
Nước nhà được độc lập, sau nhà Đinh, nhà Lý lên ngôi, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô về Thăng Long, đặt tên nước là Đại Việt, xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, xây dựng, củng cố quân đội, chăm lo phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Ở phía Bắc, sau khi thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ nhất dưới thời Tiền Lê, nhà Tống vẫn không chịu bỏ âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Ở phía Nam, mặc dầu bị thất bại nặng nề trong những lần đánh phá nước ta, các vương triều Chiêm Thành vẫn không từ bỏ âm mưu mở rộng ảnh hưởng ra phía Bắc và có âm mưu cấu kết với nhà Tống xâm lược lãnh thổ quốc gia. Trước tình hình đó, vua Lý Thánh Tông quyết định đem quân đánh Chiêm Thành nhằm bảo vệ cương vực phía Nam và ngăn chặn cuộc xâm lược của nhà Tống ở phía Bắc. Năm 1069, Lý Thánh Tông cùng tướng tiên phong Lý Thường Kiệt đánh vào kinh đô Chiêm Thành, bắt sống vua Chiêm là Chế Cũ đưa về Thăng Long. Để chuộc mạng, Chế Cũ xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (tức vùng đất Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) cho nhà Lý. Năm 1075, Lý Thường Kiệt cho vẽ bản đồ ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh và chiêu dân đến khai hoang lập ấp.
Như vậy là dưới triều Lý từ 1075 vùng Quảng Bình xưa đã trở thành đơn vị hành chính của Đại Việt với tên gọi là Châu Bố Chính và Châu Lâm Bình. Có thể nói đây là mốc lịch sử quan trọng định hình địa vực cư trú của cộng đồng người Việt trên vùng đất Quảng Bình ngày nay.
Những cư dân đầu tiên theo lời chiêu mộ của Lý Nhân Tông đã đến đây khai phá vùng đất mới, lập nên làng xã. Đặc điểm hình thành làng xã ở Quảng Bình ngày nay là các vùng đất phía Nam thuộc Châu Lâm Bình được khai phá trước vì đây là vùng đất màu mỡ thuận lợi cho việc khai hoang, canh tác nghề nông và do yêu cầu của việc tạo vùng đất phên dậu ở biên cương phía Nam Đại Việt. Những cư dân đầu tiên đến khai thiết vùng đất này trước hết là những người dân ở các địa phương gần chủ yếu là ở Châu Hoan, Châu Ái (Nghệ An, Thanh Hóa ngày nay). Trong những đợt di dân đó người ta thường tập hợp những người trong cùng một họ tộc để dễ bề giúp đỡ, cưu mang nhau. Họ đi cùng một đoàn, khai phá một nơi, rồi lập lên làng xã. Chính vì vậy ở Quảng Bình, những danh xưng của làng thường mang tên một họ tộc như Phan Xá, Ngô Xá, Hoàng Xá, Võ Xá... Chính đặc điểm này đã tạo nên sự gắn kết vững chắc của cộng đồng vì nó không chỉ là một đơn vị hành chính mà còn có yếu tố huyết thống dòng tộc.
Sau khi nhà Lý suy vong triều Trần được thiết lập tiếp tục công việc kiến thiết đất nước, củng cố quốc gia thống nhất, mở rộng biên cương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, cương vực đất nước được mở rộng xuống phía Nam, công cuộc khai thác vùng đất bố Chính và Lâm Bình được đẩy mạnh. Triều Trần đã có một số cải cách hành chính nhằm củng cố chế độ tập quyền. Các đơn vị hành chính được cải tổ lại cho phù hợp với việc quản lý của chính quyền trung ương. Đầu đời Trần, Châu Lâm Bình dưới đời Lý được đổi thành phủ Lâm Bình. Đến đời Duệ Tông (1372-1377) đổi phủ Lâm Bình thành phủ Tân Bình sau đổi thành lộ Tân Bình. Năm Quang Thái thứ 10 (1397), Lê Quý Ly làm phụ chính thái sư, sửa đổi chế độ hành chính, đã đổi các lộ, phủ ra làng trấn phủ Tân Bình được đổi thành trấn Tân Bình. Như vậy, cuối đời Trần cộng đồng cư dân người Việt sống trên địa bàn thuộc các đơn vị hành chính sau đây:
Trấn Tân Bình có huyện Thượng Phúc, huyện Nha Nghi và huyện Tri Kiến.
Châu Bố Chính có huyện Bố Chính, huyện Đặng Gia và huyện Tòng Chất.
Cuối đời Trần, nhà Hồ lên nắm quyền trong một thời gian ngắn. Sau khi diệt được nhà Hồ, triều đại phong kiến Trung Quốc là nhà Minh thôn tính Đại Việt, đổi nước ta thành quận Giao Chỉ và có những thay đổi về đơn vị hành chính ít nhiều. Nhà Minh đặt các châu huyện lệ vào 15 phủ và 5 châu lớn trong đó có phủ Tân Bình, đổi Châu Bố Chính làm Châu Trấn Bình; huyện Thượng Phúc đổi thành huyện Phúc Khang, huyện Bố Chính thành huyện Chính Hòa, huyện Đặng Gia thành huyện Cổ Đặng.
Theo Minh Chí thì đời Vĩnh Lạc, phủ Tân Bình có 37 xã với 2.132 hộ, 4.738 khẩu.
Sau khi đánh đuổi quân Minh khôi phục nền độc lập dân tộc, công cuộc khai phá được đẩy mạnh. Dưới triều Lê Thánh Tông có chính sách chiêu dụ khai khẩn vùng đất Bố Chính, các làng xã ở Tân Bình và Bố Chính phát triển nhiều hơn. Năm Quang Thuận thứ 10 tức năm Kỷ Sửu (1469) lập bản đồ trong cả nước, phủ Tân Bình có hai huyện là Lệ Thủy và Khang Lộc và hai châu là Minh Linh và Bố Chính. Lê Lợi chia cả nước làm 5 đạo: Nam đạo, Bắc đạo, Đông đạo, Tây đạo và Hải Tây đạo.
Trấn Tân Bình được đổi thành lộ Tân Bình thuộc đạo Hải Tây.
Đến năm Quang Thuận thứ 7 (1466) để tăng cường sự quản lý thống nhất về mặt hành chính, Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo thừa tuyên, đổi phủ làm lộ, đổi trấn làm châu.
Vốn là lộ Tân Bình, đời Hoằng Định (1600) vì húy kỵ nên Lê Kính Tông đổi làm Tiên Bình.
Trong giai đoạn lịch sử này đất nước có những biến động lớn. Đầu thế kỷ XVI, triều Lê suy yếu, năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu thắng thế, phế truất triều Lê lập triều Mạc. Họ Mạc vừa lên nắm chính quyền thì các phe phái phong kiến đối lập, nấp dưới chiêu bài khôi phục triều đại chính thống, nổi lên ở nhiều nơi. Cuối cùng một viên tướng cũ của triều Lê là Nguyễn Kim ra sức tập hợp các thế lực chống Mạc, rồi chiếm giữ vùng Thanh Hóa, Nghệ An, thành lập một chính quyền riêng với danh nghĩa là triều Lê Trung Hưng. Năm 1545 Nguyễn Kim chết, quyền hành rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Cuộc xung đột giữa các phe phái phong kiến đã đưa đến hậu quả đất nước bị chia làm hai miền. Chính quyền nhà Mạc thống trị vùng Bắc Bộ ngày nay, gọi là Bắc triều, và họ Trịnh nắm quyền hành từ vùng Thanh Hóa trở vào gọi là Nam triều. Cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến đó kéo dài trên nửa thế kỷ. Năm 1592 Nam triều thắng Bắc triều và chiếm được Thăng Long, nhưng các thế lực nhà Mạc còn chiếm cứ nhiều nơi, rút lên cố thủ ở Cao Bằng cho đến những năm 70 của thế kỷ XVII. Trong thời gian này vùng đất Tân Bình vẫn thuộc đất họ Trịnh (Lê Trung Hưng) và không có thay đổi về tên gọi, chỉ đến năm 1600 mới đổi thành Tiên Bình. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều kết thúc thì một cuộc chiến tranh mới giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn lại diễn ra,  kéo dài và còn ác liệt hơn.
Xuất hiện danh xưng Quảng Bình
Nguyễn Hoàng (1525 - 1613), sau khi thiết lập cương vực ở phía Nam, thống nhất lại các đơn vị hành chính thuộc quyền đã đặt tên mới cho vùng đất phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình. Danh xưng Quảng Bình chính thức đi vào lịch sử.
Dưới thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, châu Bố Chính chia thành Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính. Bắc Bố Chính thuộc Nghệ An, Nam Bố Chính thuộc Quảng Bình ngày nay, lấy sông Gianh làm giới hạn.
Đầu đời Gia Long, khi thắng được nhà Tây Sơn, tại miền Trung, khu vực phụ cận kinh đô, nhà Nguyễn đặt bốn dinh trực lệ là Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức và Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) đổi dinh Quảng Bình làm trấn Quảng Bình bỏ hai chữ trực lệ. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi trấn Quảng Bình thành tỉnh Quảng Bình. Đến đây Quảng Bình có thiết chế hành chính cấp tỉnh.
Các đơn vị hành chính ở Quảng Bình thời kỳ này có những biến đổi như sau:
Phủ Tiên Bình, vốn là Tân Bình, đời Hoằng Định (1600) đổi làm Tiên Bình; năm 1604 Nguyễn Hoàng đổi làm phủ Quảng Bình; năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi làm Quảng Ninh.
Huyện Khang Lộc: Thời Lê sơ là Kiến Lộc, sau đổi thành Khang Lộc; Năm Gia Long thứ 5 (1806) đổi làm Phong Lộc, lệ vào phủ Quảng Bình; năm Minh Mạng thứ 7 do phủ Quảng Bình (sau đổi làm phủ Quảng Ninh kiêm lý; năm Minh Mạng thứ 19 tách đất huyện Phong Lộc làm huyện Phong Phú sau bỏ tri huyện cho phủ kiêm lý. Địa vực hiện nay thuộc phần đất chủ yếu của huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ngày nay.
Huyện Lệ Thủy có địa vực chủ yếu thuộc hữu ngạn phần trung lưu sông Kiến Giang, nay cũng là huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
Châu Bố Chính: Thời Lê Trung Hưng Châu Bắc Bố Chính thuộc Nghệ An, Châu Nam Bố Chính thuộc Quảng Bình; thời Tây Sơn hai châu đổi làm châu Thuận Chính, đời Gia Long lại chia làm hai Châu Bố Chính nội và ngoại, sau đổi làm hai huyện Bố Trạch và Bình Chính đều lệ vào phủ Quảng Ninh; năm Minh Mạng thứ 19 (1838) tách đất hai huyện đặt thêm huyện Minh Chính lệ vào phủ Quảng Trạch; năm Tự Đức thứ 28 (1874) lại đặt thêm huyện Tuyên Hóa lệ vào phủ Quảng Trạch. Châu Bố Chính tương đương với đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay.
Thời kỳ thuộc Pháp từ năm đến năm 1945 tỉnh Quảng Bình về cơ bản có địa giới như cũ và tên tỉnh vẫn là tỉnh Quảng Bình.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục giữ nguyên địa giới và tên tỉnh như trước đây là tỉnh Quảng Bình cho đến 1976.
Từ tháng 5-1976, tỉnh Bình Trị Thiên thành lập trên cơ sở hợp nhất ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên - Huế và khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình không còn là một đơn vị hành chính cấp tỉnh, các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cũ trực thuộc vào tỉnh Bình Trị Thiên.
Từ tháng 7-1989, tỉnh Bình Trị Thiên được chia thành ba tỉnh là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình lại trở về với địa giới cũ và là một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về danh nhân Quảng Bình
Vùng Quảng Bình thời tiền sử

Quảng Bình nằm trên giải đất phía Bắc miền Trung, có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, có dãy Hoành Sơn chạy từ Tây sang Đông, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp tỉnh Khăm Muộn (Lào) với đường biên giới dài 201,87km, phía Đông là biển đông với đường bờ biển dài 116,04 km. Nơi đây trong lịch sử đã trải qua nhiều biến đổi thăng trầm, nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư, nơi chứa đựng nhiều ảnh hưởng của nhiều nền văn minh.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà địa chất học, vùng đất Quảng Bình có một bề dày văn hoá hàng nghìn năm, có nhiều dấu tích cư trú lâu đời của người tiền sử, từ thời đồ đá giữa, cách đây khoảng vạn năm. Các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước trước năm 1945, đã phát hiện được trên địa phận Quảng Bình nhiều di tích khảo cổ học.
Năm 1926, nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện và khai quật nhiều di chỉ hang động ở miền Tây Quảng Bình, thuộc huyện Tuyên Hoá, qua đó cho thấy có sự tồn tại của nền văn hoá khảo cổ mang tên Hoà Bình ở vùng núi đá vôi này. Chủ nhân của văn hoá Hoà Bình trên đất Quảng Bình thời tiền sử sống trong các hang động, các mái đá. Họ thường chọn các hang đá, mái đá cao ráo, nhiều ánh sáng và gần nguồn nước, thức ăn chủ yếu của họ là ốc. Sinh sống trong các hang động ở miền thượng nguồn của Quảng Bình, theo mực nước thuỷ triều rút xuống, những người cổ men theo các triền sông có đất đai màu mỡ di cư xuống đồng bằng ven biển, khai phá đầm lầy, chinh phục thiên nhiên, xây dựng quê hương làng bản. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những di chỉ làng ven các dòng sông: di chỉ Cồn Nền nằm ở bờ Bắc sông Gianh chừng 200m, di chỉ Lệ Kỳ nằm sát một dòng sông cổ bị vùi lấp v.v... Tất cả đều theo dòng chảy của nước về kết tinh trong nền văn minh Bàu Tró. Đây là một địa điểm khảo cổ học vô cùng quan trọng có niên đại trên dưới 5.000 năm. Văn hoá Bàu Tró tiêu biểu cho thời kỳ đồ đá mới ở ven biển miền Trung. Bàu Tró được phát hiện vào năm 1923. Từ đó đến nay, công cuộc khai quật, nghiên cứu Bàu Tró càng được đẩy mạnh, mở ra nhiều triển vọng trong việc nghiên cứu Quảng Bình thời tiền sử và người tiền sử Quảng Bình, cũng như vấn đề tiền Đông Sơn và tiền Sa Huỳnh; mối quan hệ qua lại của văn hoá hai miền qua văn hoá Bàu Tró. Đã có nhiều ý kiến cho rằng văn hoá Bàu Tró là một trong những cội nguồn nảy sinh văn hoá Đông Sơn phía Bắc và văn hoá Sa Huỳnh ở phía Nam. Nếu chủ nhân văn hoá Hoà Bình ở miền Tây Quảng Bình đã sáng tạo nên một nền văn hoá miền núi thì người Bàu Tró cũng tạo nên một nền văn hoá nước ở miền xuôi.
Thành tựu vĩ đại của người Quảng Bình thời tiền sử là họ đã biết chế tạo những công cụ bằng đá salíc pha vẩy sét, một loại đá lửa làm công cụ lao động tốt nhất chưa hề thấy trong các văn hoá đá mới ở Việt Nam. Mặt khác, họ còn là chủ nhân của văn hoá gốm màu sớm nhất trên đất nước ta. Nó chứng tỏ cộng đồng người tiền sử Quảng Bình ngay từ đầu đã có một nền tảng kỹ thuật đồ đá, đồ gốm rất cao. Người Quảng Bình thời tiền sử từ văn hoá Hoà Bình đến văn hoá Bàu Tró luôn mang bản sắc riêng - bản sắc của vùng đất đầy nắng gió Lào, bản sắc của một cư dân có tính cần cù, chịu khó, bền bĩ được hình thành cách đây trên dưới vạn năm, là ngọn nguồn tạo nên bản sắc độc đáo: Văn hoá Quảng Bình trong bản sắc văn hoá Việt Nam.
Lịch sử hình thành tỉnh Quảng Bình

Trong lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, Quảng Bình luôn là một phần đất thiêng liêng của lãnh thổ Việt Nam. Vùng đất Quảng Bình hôm nay đã trải qua nhiều lần thay đổi cương vực (địa giới lãnh thổ) và tên gọi. Theo thư tịch cũ, thuở vua Hùng lập quốc, Quảng Bình thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang.
Dưới các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, vùng đất Quảng Bình khi thì nằm trong quận Tượng Lâm, khi thì nằm trong quận Nhật Nam.
Năm 192 triều đại Đông Hán bị đánh bại phải rút quân về nước, Quảng Bình nằm trong lãnh thổ Lâm Ấp. Đến năm 758 Lâm Ấp đổi tên là Chiêm Thành, Quảng Bình nằm trong 2 châu: Châu Bố Chính và Châu Địa Lý.
Năm 1069, để phá tan âm mưu cấu kết giữa quân xâm lược nhà Tống và Chiêm Thành, một đạo quân Đại Việt do Lý Thánh Tông cầm đầu và tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy, đã tiến đánh vào tận kinh thành Chăm-pa, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Để chuộc tội, vua Chiêm cắt dâng 3 châu: Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý (gồm Quảng Bình - Quảng Trị) cho nhà Lý. Quảng Bình trở về với cội nguồn Đại Việt từ đó.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt đổi tên Châu Bố Chinh thành Châu Bố Chính, Châu Địa Lý thành Châu Lâm Bình. Mảnh đất Quảng Bình từ đó chính thức được đưa vào bản đồ nước ta. Chính Lý Thường Kiệt là người có công đầu xác định và đặt nền móng đầu tiên của vùng đất Quảng Bình trọn vẹn cương vực lãnh thổ như ngày nay.
Sau thời Lý Thường Kiệt, cương vực và tên vùng đất này lại có nhiều thay đổi, năm 1361 vua Trần Duệ Tông đổi châu Lâm Bình thành phủ Tân Bình, năm 1375 Trần Duệ Tông đổi phủ Lâm Bình thành phủ Tân Bình.
Dưới triều Lê, đời Lê Thánh Tông (1460-1497), quận Tân Bình thuộc Châu Thuận Hoá.
Đến thời Nguyễn Hoàng (1558 đến 1604) vùng đất Bắc sông Gianh gọi là xứ Đàng Ngoài, vùng Nam sông Gianh gọi là xứ Đàng Trong. Năm 1605 Nguyễn Hoàng đổi Châu Bố Chính thành phủ Quảng Bình, cái tên Quảng Bình có từ đó.
Nguyễn Huệ là người có công chấm dứt nội chiến Nam Bắc phân tranh hơn 200 năm, lấy sông Gianh làm ranh giới, thống nhất đất nước xóa bỏ 2 châu Bắc, Nam Bố Chính thành lập Châu Thuận Chính (Thuận có nghĩa là hòa thuận chấm dứt chiến tranh).
Năm 1802, sau khi đàn áp phong trào Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, Gia Long trở lại tên gọi vùng đất Quảng Bình hiện nay là Bố Chính nội, Bố Chính ngoại, nhằm phân biệt giữa Đàng Trong, Đàng Ngoài trong việc phong tước phẩm, định mức thuế đối với nhân dân hai bờ sông Gianh.
Năm 1832, đời vua Minh Mạng, Bố Chính trở về tên gọi là tỉnh Quảng Bình (tên tỉnh Quảng Bình là một đơn vị hành chính bắt đầu từ đây). Từ đây cho đến thời vua Thiệu Trị toàn tỉnh có 2 phủ, 6 huyện (phủ là đơn vị hành chính bao gồm nhiều huyện). Phủ Quảng Ninh có 3 huyện: Phong Lộc, Phong Đăng và Lệ Thủy (Đồng Hới thuộc phủ Quảng Ninh). Phủ Quảng Trạch gồm 3 huyện: Bố Trạch, Bình Chánh và Minh Chánh.
Sau phong trào Cần Vương cho đến trước 1945, Quảng Bình có 2 phủ và 3 huyện (phủ lúc này không bao gồm huyện) đó là: Quảng Ninh và Quảng Trạch, ba huyện: Lệ Thủy, Bố Trạch, Tuyên Hóa (suốt thời kỳ thuộc địa Pháp dưới triều Nguyễn, Đồng Hới là tỉnh lị Quảng Bình).
Sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Quảng Bình có 5 huyện: Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa và thị xã Đồng Hới (đến năm 1965 tách huyện Tuyên Hóa thành 2 huyện Tuyên Hóa và Minh Hóa cho đến tháng 9 - 1975).
Từ ngày 20 tháng 9 năm 1975 Trung ương có quyết định nhập Quảng Bình với Quảng Trị và Thừa Thiên thành tỉnh Bình - Trị - Thiên, lấy thành phố Huế làm tỉnh lị.
Bắt đầu từ đây có sự sát nhập một số huyện ở Quảng Bình cũ: huyện Lệ Ninh (Quảng Ninh và Lệ Thủy), huyện Tuyên Minh (Tuyên Hóa và Minh Hóa).
Đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Bình Trị Thiên, ngày 1-7-1989 Trung ương Đảng đã có quyết định tách 3 tỉnh về địa giới cũ. Quảng Bình phục hồi lại vị trí các huyện như trước khi nhập tỉnh. Ngày 12-12-2004 thị xã Đồng Hới được Chính phủ ra Quyết định nâng cấp thành Thành phố loại 3 trực thuộc tỉnh.
Hiện nay (2006) toàn tỉnh có 141 xã, 10 phường, 8 thị trấn, 1 thành phố.
Quảng Bình dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn và thực dân Pháp

Nằm trên dải đất hẹp nhất của Tổ quốc, trải qua nhiều biến cố lịch sử, thời kỳ nào mảnh đất Quảng Bình cũng nằm vào vị trí xung yếu của lịch sử dân tộc, phải chứng kiến và chịu đựng nhiều nỗi đau chia cắt, chiến tranh xâm lược, tranh giành quyền lực. Điều đó đã tôi luyện con người trở nên anh dũng, bất khuất, có truyền thống yêu nước thiết tha, tinh thần chống giặc ngoại xâm, chống các thế lực phản động.
Năm 1336, nhân dân Quảng Bình tham gia vào đạo quân Đại Việt đánh quân Chiêm Thành từ phía Nam ra cướp phá châu Lâm Bình. Năm 1425, nhân dân Quảng Bình nổi dậy phối hợp cùng đạo quân của tướng Lê Hãn đánh tan quân Minh trên bờ sông Gianh. Nhiều tráng kiệt của vùng đất Tân Bình được tuyển chọn vào nghĩa quân của Lê Lợi tiến ra Bắc đánh đuổi giặc Minh, có nhiều người trở thành tướng giỏi của Lê Lợi như Phạm Thượng Tướng, Nguyễn Danh Cả... trực tiếp góp phần vào cuộc chiến đấu giải phóng đất nước.
Do nằm ở vùng đất tranh chấp của hai thế lực phong kiến vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong, nhân dân Quảng Bình phải chịu biết bao khó khăn. Chính sách bóc lột, đàn áp của tập đoàn phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài đã làm cho nhân dân hai vùng điêu đứng, cực khổ. Năm 1771, phong trào nông dân Đàng Trong chống áp bức phát triển lên đỉnh cao với cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Chỉ trong vòng 10 ngày của tháng 6 năm 1786, nhân dân Quảng Bình đã nổi dậy phối hợp với nghĩa quân Tây Sơn đánh tan 3 vạn quân Trịnh trên phòng tuyến sông Gianh. Sau đó tiếp tục tiến thẳng ra Bắc - Hà, lật đổ chế độ nhà Trịnh, thống nhất đất nước. Tháng 12 năm 1788, nông dân Quảng Bình gia nhập vào đội quân của Quang Trung - Nguyễn Huệ, tiến thẳng ra Thăng Long, quét sạch quân xâm lược Mãn Thanh.
Lên ngôi chưa được bao lâu thì Nguyễn Huệ qua đời, năm 1802, Nguyễn Ánh cấu kết với giặc ngoài lật đổ triều Tây Sơn lên làm vua, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân (Huế), lập ra nhà Nguyễn. Giành được quyền thống trị, Gia Long bắt đầu củng cố địa vị bằng những hành động hèn hạ, trả thù phong trào Tây Sơn, xoá bỏ những thành quả mà Quang Trung đã bỏ bao công sức xây dựng nên, đàn áp khốc liệt các cuộc nổi dậy của nông dân. Điều đó giải thích vì sao chỉ dưới 4 đời vua Triều Nguyễn (từ Gia Long đến Tự Đức - 1802 đến 1883), đã liên tiếp nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa của nông dân cả nước. Chính sách đối nội phản động, đối ngoại mù quáng của Triều Nguyễn đã tạo điều kiện mở đường cho thực dân Pháp xâm lược nước ta.
Sau nhiều năm chuẩn bị, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 27-6-1885, quân Pháp đổ bộ lên Thuận An, tiến vào kinh đô Phú Xuân, bắt triều Nguyễn đầu hàng vô điều kiện. Trong triều đình Huế lúc này phân thành hai phe: "Phe chủ chiến" và "Phe chủ hoà", "Phe chủ chiến" do Thượng thư Tôn Thất Thuyết đứng đầu đã vạch ra kế hoạch tấn công quân Pháp ở Huế. Sau vụ phản công ở Huế tháng 7-1885 không thành, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra căn cứ Tân Sở (Quảng Trị), sau ra Tuyên Hoá (Quảng Bình) phát chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên phò vua cứu nước.
Đứng trước nguy cơ mất nước, hưởng ứng phong trào Cần Vương, nhân dân Quảng Bình đã vùng dậy dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, quan lại và trí thức có tấm lòng yêu nước, đánh trả quân xâm lược. Vùng đất Quảng Bình trở thành một trong những nơi tụ nghĩa của phong trào Cần Vương. Các sĩ phu yêu nước của đất Quảng Bình như: Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân, Hoàng Phúc, Đoàn Chí Tuân... đã chiêu tập nghĩa quân, đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Hoảng sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào kháng chiến chống Pháp ở Quảng Bình, thực dân Pháp và triều đình phong kiến Huế đã tập trung lực lượng đàn áp. Ngày 19-7-1885, quân Pháp nhanh chóng chiếm thành Đồng Hới. Thực dân Pháp còn tổ chức nhiều cuộc tấn công vào căn cứ của vua Hàm Nghi ở vùng Tuyên Hóa. Tại đây đã xảy ra những trận đánh lớn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Phạm Tuân và các tướng khác. Tháng 1-1886, tại Khe Ve, nghĩa quân đã đánh bại hai lần tấn công quy mô của quân Pháp, giết và làm bị thương nhiều tên địch.
Tháng 4-1886, ở Mỹ Lộc (Lệ Thủy) nghĩa quân Cần Vương dưới sự chỉ huy của thống lĩnh Hoàng Phúc đã đánh tan cuộc truy lùng của 500 lính khố xanh và quân Pháp, bắt sống tên cầm đầu là Võ Bá Liên. Cũng vào thời điểm này ở đồn Lèn Bạc, Áng Sơn, Khe Giữa (Lệ Thủy), các thủ lĩnh Đề Én, Đề Chính, Lãnh Nhưỡng đã lãnh đạo nghĩa quân lần lượt đẩy lùi những cuộc tiến công của quân Pháp ở vùng núi này...
Những hoạt động mạnh mẽ của đội quân Cần Vương ở Quảng Bình dưới sự chỉ huy của Đoàn Chí Tuân (tức Bạch Xỉ) cũng giành được thắng lợi. Nghĩa quân đã làm cho quân Pháp ở vùng này hoang mang, mất ăn mất ngủ.
Đến năm 1889, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, phong trào Cần Vương ở Quảng Bình tạm thời lắng xuống nhưng tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của nhân dân vẫn âm ỉ cháy, rồi lại bùng lên mạnh mẽ trong các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, trong các phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân do Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi xướng... Tuy nhiên, các phong trào đấu tranh lúc này do chưa có một đường lối chính trị đúng đắn, nên không thể đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Phải đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) đảm đương sứ mệnh của một Đảng lãnh đạo thì lúc đó các phong trào chống Pháp ở Quảng Bình mới có người lãnh đạo, phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn. Các tổ chức cơ sở Đảng lần lượt ra đời ở Trung Lực, Mỹ Thổ (Lệ Thuỷ), Kẻ Rấy (Bố Trạch), Lũ Phong (Bố Trạch). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống sưu cao, thuế nặng ở Quảng Bình liên tiếp nổ ra...
Từ năm 1936-1939, Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương sau là Mặt trận dân chủ Đông Dương ra đời. Các tổ chức quần chúng được hình thành từ tỉnh đến xã với nhiều hình thức như : công hội, nông hội, hội cứu tế... Các cuộc đấu tranh trong thời kỳ này đã làm cho phong trào cách mạng ở Quảng Bình có sự khởi sắc, đội ngũ cán bộ đảng viên trưởng thành. Quần chúng cách mạng được tập hợp, thử thách trong thực tiễn đấu tranh. Đó là những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng không những làm cho quần chúng gắn bó mật thiết với nhau mà còn tạo tiền đề cơ sở cho cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
Trong thời kỳ 1939-1941, phong trào cách mạng ở Quảng Bình chỉ dừng lại ở việc đấu tranh để bảo vệ quyền lợi đã giành được trong thời kỳ mặt trận dân chủ và cố gắng duy trì các hình thức tổ chức cũ.
Tháng 2-1942, các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh được thành lập, các đội tự vệ tuyên truyền xung phong lần lượt ra đời ở Lệ Thuỷ, Quảng Trạch.
Ngày 17-8-1945, Tỉnh bộ Việt Minh đã họp hội nghị để quán triệt lệnh tổng khởi nghĩa do đồng chí Tố Hữu phái viên của Trung ương vào truyền đạt. Hội nghị bàn kế hoạch lãnh đạo và quyết định lấy ngày 23-8-1945 làm ngày khởi nghĩa chung toàn tỉnh. Sau hội nghị, phong trào cách mạng ở Quảng Bình có bước phát triển nhảy vọt và trưởng thành nhanh chóng. Các cơ sở Việt Minh huyện, thị được củng cố. Hàng trăm cuộc mít tinh được tổ chức. Phong trào sắm sửa vũ khí và luyện tập quân sự phát triển khắp nơi cùng với phong trào đấu tranh sôi nổi của quần chúng, khí thế cách mạng đã lan rộng ra khắp các huyện, thôn, xóm báo hiệu một cuộc vùng lên mạnh mẽ của quần chúng nhân dân dưới ngọn cờ cách mạng của Mặt trận Việt Minh.
Đêm 22 rạng ngày 23-8-1945, các tầng lớp nhân dân ở vùng ven và quanh khu vực thị xã Đồng Hới với băng cờ, gươm, giáo mác, gậy gộc tập trung đông đảo quanh thành Đồng Hới đợi lệnh tổng khởi nghĩa. Mờ sáng ngày 23-8-1945, lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố. Dân chúng từ các nơi đổ vào cửa thành, bao vây toà sứ, trại lính. Lực lượng tự vệ mau chóng chiếm được Bưu điện, Kho Bạc, Sở Công chính, nắm giữ các vị trí xung yếu trong nội thị, sẵn sàng đánh trả mọi hành động chống cự của địch. Tám giờ ngày 23-8, Uỷ ban khởi nghĩa làm lễ ra mắt và tuyên bố thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, quần chúng cách mạng ở các phủ huyện đã đồng loạt vùng lên giành chính quyền. Đến ngày 25-8, chính quyền cách mạng từ tỉnh xuống phủ, huyện, xã đều đã được thiết lập.
Ngày 23-8-1945 là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Bình. Chỉ trong vòng chưa đầy một ngày đêm, quần chúng nhân dân khắp tỉnh nhất tề nổi dậy lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc khởi nghĩa diễn ra nhanh gọn và thu dược thắng lợi to lớn.
Ngày 2-9-1945, lần đầu tiên trong lịch sử, quân và dân Quảng Bình đủ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, từ miền xuôi đến miền ngược đã tập trung về tỉnh lỵ và huyện lỵ dự cuộc mít tinh lớn mừng ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Ngày mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới "Nước Việt Nam đã thành một nước tự do, độc lập"... "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Quảng Bình kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

Sau khi giành được thắng lợi, chính quyền cách mạng non trẻ phải đương đầu với những khó khăn chồng chất. Hậu quả của nạn đói đầu năm 1945 còn rất nghiêm trọng, tàn dư kinh tế, văn hoá, xã hội của chế độ cũ để lại còn nặng nề. Lực lượng vũ trang còn yếu, thiếu vũ khí, thiếu cán bộ quân sự... Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Quảng Bình phải đối mặt với ba loại giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Hàng vạn người thiếu ăn, hàng trăm người thất nghiệp không có việc làm phải bỏ quê hương đi tha hương cầu thực. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy", Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình quyết tâm xây dựng và bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng vừa giành được. Nhân dân trong tỉnh đưa ra nhiều sáng kiến để cứu đói như lập hũ gạo cứu đói, ngày đồng tâm nhịn ăn, thành lập các đoàn cứu đói đi giúp đỡ nhân dân và lực lượng vũ trang...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đứng lên khởi nghĩa thắng lợi giành được chính quyền từ tay phát xít Nhật, thiết lập được nền độc lập tự do sau hơn 80 năm phải sống trong xiềng xích nô lệ của đế quốc. Thế nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm xâm chiếm trở lại nước ta. Ngày 23-9-1945, núp dưới bóng quân Anh, thực dân Pháp trở lại Sài Gòn, nổ súng tiến công mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ba tháng sau, ngày 27-3-1947 thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn hải, lục, không quân đánh chiếm Quảng Bình. Trong một thời gian ngắn, quân Pháp đã thiết lập một hệ thống đồn bốt dày đặc, tiến hành các vụ tàn sát đẫm máu. Quảng Bình trở thành chiến trường ác liệt, gian khổ và giữ một vị trí quan trọng trên địa bàn Liên khu 4. Là một bộ phận gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước, nhân dân Quảng Bình đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đoàn kết một lòng đứng dậy kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Liên khu IV, Đảng bộ tỉnh, nhân dân Quảng Bình đã biết vận dụng một cách sáng tạo trước mọi tình huống của chiến tranh, đồng thời tổ chức, động viên toàn dân tham gia kháng chiến, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù.
Ngay từ trận đầu, khi quân Pháp mới đổ bộ lên bờ biển Nhật Lệ chúng đã bị các chiến sĩ của đội quân Lê Trực, du kích thị xã Đồng Hới và Bảo Ninh đánh trả quyết liệt. Lực lượng chiến đấu ở các nơi khác cũng đồng loạt nổ súng, hơn 20 ngày chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang và dân quân tự vệ Quảng Bình đã tiêu diệt được 460 tên địch. Địch kiểm soát miền Nam và miền Trung tỉnh Quảng Bình. Huyện Tuyên Hoá và một phần thuộc phía Bắc huyện Quảng Trạch vẫn thuộc quyền làm chủ của ta.
Đầu năm 1948, thực dân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng, phá thế liên hoàn của ta. Hầu khắp đồng bằng Lệ Thuỷ, Quảng Ninh, thị xã Đồng Hới, phần lớn huyện Bố Trạch, một phần ba huyện Quảng Trạch và vùng địa đầu huyện Tuyên Hoá đã bị thực dân Pháp chiếm đóng, kiểm soát. Trước tình hình đó nhân dân trong toàn tỉnh đã đoàn kết lại lần lượt đánh tan các trận càn quét của Pháp ở Cự Nẫm, Cảnh Dương. Trận phục kích tiêu diệt địch của C2/D274 bộ đội địa phương Quảng Bình tại Tiên Lương (Quảng Trạch) ngày 10/8/1948 là trận mở đầu của chiến dịch Thu - Đông năm 1948 ở Quảng Bình. Đây là trận đánh đầu tiên ta tiêu diệt bọn đầu sỏ nguỵ quyền cấp tỉnh, bắt được nhiều tù binh Pháp. Thắng lợi của trận đánh đã gây tâm lý hoang mang đối với hệ thống nguỵ quân, nguỵ quyền các cấp trong tỉnh, góp phần chặn đứng âm mưu của địch muốn chiếm Bắc Quảng Bình làm bàn đạp tiến công Hà Tĩnh và các tỉnh phía Bắc Liên khu IV.
Đầu năm 1949, phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng khắp toàn tỉnh, hậu phương kháng chiến ngày càng được củng cố vững mạnh về mọi mặt.
Ngày 24-1-1949, Đại đội 1 (bộ đội địa phương huyện Lệ Thuỷ) tổ chức cải trang tập kích địch ở chợ Chè (thuộc xã Sào Nam - Lệ Thuỷ) nằm sâu trong vùng địch hậu. Sau 15 phút chiến đấu, ta đã hoàn toàn làm chủ chiến trường, bắt sống 5 tên địch, thu vũ khí địch, quân ta rút lui an toàn. Trận chợ Chè diễn ra giữa ban ngày tại vùng địch hậu nên có ý nghĩa to lớn, gây được niềm tin cho nhân dân...
Trước tình hình phát triển mạnh mẽ của phong trào kháng chiến, tháng 6-1949, Tỉnh uỷ mở hội nghị cán bộ toàn tỉnh, hội nghị quyết định lấy ngày 15-7-1949 làm ngày "Quảng Bình quật khởi". Ngày 15-7-1949, quân dân Quảng Bình đã cùng nhau đoàn kết đồng loạt nổi dậy tấn công địch bằng quân sự, chính trị ở nhiều nơi, đẩy chúng vào thế bị động đối phó, quân ta chuyển từ thế yếu thành thế mạnh.
24 giờ ngày 15-7-1949, đại đội 2 (tiểu đoàn 274) cùng du kích xã Gia Ninh tiến công đồn Mỹ Trung mở màn cho đợt tấn công.
Ngày 16-7-1949, nhân dân các huyện Lệ Thuỷ, Quảng Ninh cùng lực lượng vũ trang đồng loạt nổi dậy tấn công địch. Toàn bộ tháp canh của hương vệ, tổng vệ ở huyện Quảng Ninh bị quân và dân ta thiêu cháy. Đường dây liên lạc ở Lệ Thuỷ và Quảng Ninh đều bị cắt đứt. Quân địch lâm vào thế "tiến thoái lưỡng nan", nằm án binh bất động.
Tại Bố Trạch, ngày 16-7, du kích thôn Quy Đức (Hải Trạch) đánh chìm ghe đi tuần của địch đậu trước cửa đồn Lý Hoà.
Ngày 17-7, bộ đội phục kích chặn đò địch trên sông Kiến Giang tại hai xã Quang Trung - Minh Khai bắt 5 tên địch.
Ngày 18-7, du kích Hoàn Lão giật bom, diệt 11 tên địch, 21 giờ cùng ngày, các vị trí địch ở Bố Trạch đều bị du kích quấy rối.
Ngày 19-7, đại đội 362 phối hợp với đại đội 2 bộ đội chủ lực tỉnh bắn vào đồn Xuân Dục làm cho địch không kịp trở tay...
Ngày 22-7, du kích Cự Nẫm đột nhập vào sào huyệt của địch đốt cháy toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng và lương thực dự trữ của chúng.
Ở Quảng Trạch, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng nổi dậy đấu tranh, phá hoại giao thông nhằm ngăn cản bước tiến của địch, mở nhiều cuộc tập kích vào đồn địch, quấy rối địch ở đồn Minh Lệ.
Song song với những hoạt động quân sự, các hình thức đấu tranh chính trị, địch vận cũng được đẩy mạnh. Từ Sen Hạ đến Văn La, Lương Yến, đồng bào đã đồng loạt nổi dậy diệt ác phá tề. Quảng Ninh đã phá được 33/37 hội tề, bắt hơn 150 tên đưa lên chiến khu giáo dục...
Tính đến cuối tháng 7/1949, lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 120 trận, diệt 40 tên Pháp, bắn bị thương 120 tên bao gồm cả Pháp và nguỵ, phá hỏng 22 xe, 34 cầu cống, giải tán 225 hội tề...
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã xuất hiện nhiều làng chiến đấu tiêu biểu như Cự Nẫm, Cảnh Dương... Các làng chiến đấu đó là những thành công điển hình về động viên và tổ chức được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến.
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến ở Quảng Bình lại giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng những chiến công vang dội của lực lượng vũ trang như chiến thắng La Hà, Phù Trịch tháng 2-1950, chiến thắng Xuân Bồ tháng 5-1950...
Được sự giúp đỡ của bộ đội chủ lực, tháng 2-1952, lực lượng vũ trang Quảng Bình đã chủ động mở nhiều cuộc tiến công vào các vị trí quan trọng của địch trên phòng tuyến phía Bắc giải phóng Sen Bàng, Ba Đồn, Mỹ Hoà, mở rộng vùng tự do.
Bước vào Đông Xuân 1953-1954, lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh, căn cứ cách mạng được mở rộng ở vùng trung du, đồng bằng, thị xã. Được chiến thắng liên tiếp trên chiến trường chính cổ vũ, quân và dân Quảng Bình liên tục đánh điểm diệt, phá trên 20 vị trí và tháp canh, bao vây các đồn bốt, cắt đứt đường giao thông tiếp tế, đập vỡ một mảng lớn hệ thống phòng ngự của địch, giải phóng hoàn toàn phần đất đai bị địch chiếm đóng ở Tuyên Hoá và một phần của huyện Quảng Trạch, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân địch, giải phóng quê hương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhìn lại toàn bộ quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Quảng Bình, chúng ta càng tự hào với những chiến thắng mà nhân dân Quảng Bình đã dành được. Thành quả to lớn ấy trước hết là do đường lối đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã khẳng định sự ra đời, tính cách mạng và tính khoa học của một phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, một nền nghệ thuật quân sự của chiến tranh toàn dân và chiến tranh toàn diện ở nước ta, phù hợp với quy luật của chiến tranh cách mạng để tiến hành cuộc kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.
Quảng Bình kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược

Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng (1954), quân và dân Quảng Bình cùng một lúc phải dồn sức giải quyết nhiều việc hết sức cấp bách. Xác định vị trí là tỉnh tuyến đầu miền Bắc, mọi hoạt động kinh tế, xã hội trên mảnh đất Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đối với quần chúng cách mạng ở miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ Quảng Bình bắt tay thực hiện công cuộc hàn gắn vết thương sau chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, thúc đẩy sự phát triển toàn diện cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, thực hiện chủ trương của Đảng đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng cả nước, Quảng Bình bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Lần đầu tiên ở Quảng Bình xuất hiện những xí nghiệp quốc doanh sản xuất và góp phần cung ứng hàng hóa tiêu dùng cho nhân dân. Các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục đều phát triển. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) ở Quảng Bình đang thực hiện có kết quả, thì ngày 4-8-1964 đế quốc Mỹ dựng nên ’’sự kiện vịnh Bắc Bộ", cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi trên miền Bắc. Đến ngày 7-2-1965, Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc nước ta. Từ đó Quảng Bình phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình thời chiến.
Nắm bắt được những hoạt động quân sự của ta trên địa bàn phía Bắc giới tuyến quân sự, Mỹ - ngụy đã tiến hành những hoạt động gián điệp, biệt kích để dò la tình hình và phá hoại. Chỉ trong năm 1963, Mỹ - ngụy tung ra Quảng Bình hơn 10 toán gián điệp, biệt kích. Tất cả những đợt tung gián điệp, biệt kích xuống địa bàn Quảng Bình đều bị nhân dân phát hiện và làm thất bại, nhưng Mỹ - ngụy vẫn không chịu từ bỏ ý đồ xâm nhập, phá hoại miền Bắc. Từ ý đồ "tạo tiếng vang trong lòng đối phương’’ không thành chúng chuyển sang bí mật bắt cóc cán bộ, nhân dân... và đưa máy bay trinh sát điện tử U2 ra hoạt động trinh sát trên không phận của tỉnh. Đây là bước chuẩn bị leo thang cho việc đánh phá miền Bắc nói chung và Quảng Bình nói riêng sau này.
Từ ngày 8 đến 11 tháng 2-1964, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay tiếp tục đánh phá dữ dội vào thị xã Đồng Hới và các vùng lân cận trong tỉnh. Phối hợp với lực lượng phòng không, quân và dân Quảng Bình đã đánh trả quyết liệt địch ngay từ đầu, bắn cháy, bắn rơi 13 máy bay. Chiến công oanh liệt của quân và dân Quảng Bình đã mở đầu hình thức chiến đấu hiệp đồng của lực lượng phòng không ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ).
Thực hiện ý đồ đưa cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, đêm 4-8-1964, Mỹ dựng lên ’’Sự kiện Vịnh Bắc bộ’’. Ngày 5-8-1964, thực hiện kế hoạch ’’Mũi tên xuyên’’, Mỹ cho máy bay thực hiện 3 đợt tấn công vào Cửa Hội (Vinh) và căn cứ hải quân ở cảng sông Gianh. Trong trận đầu này quân và dân Quảng Bình đã bắn rơi 3 chiếc máy bay và 1 chiếc khác bị hỏng.
Ngày 5-8-1964, Mỹ sử dụng hơn 60 máy bay trinh sát, máy bay tiêm kích, cường kích AD6, A3J, F4H... bất ngờ tiến công hầu hết các căn cứ, khu trú đậu và lực lượng tàu thuyền của hải quan trên tuyến ven biển miền Bắc từ Quảng Bình đến Quảng Ninh. Ở Quảng Bình, chúng đã đánh phá nhiều địa điểm như ở Cảng Gianh, cửa Roòn, Đèo Ngang, Cự Nẫm, nhưng với tinh thần chiến đấu anh dũng, gan dạ, quân và dân Quảng Bình đã bắn rơi 2 chiếc máy bay Mỹ, chiến thắng đó mở đầu trang sử chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của quân dân Quảng Bình.
Ngày 16-10-1964, Mỹ cho máy bay trinh sát dọc tuyến đường chiến lược 12A, bắn phá địa bàn huyện Tuyên Hóa và Minh Hóa. Ngày 26-10-1964, máy bay Mỹ ném bom, bắn róckét xuống đồn Cha Lo. Ngày 18-11-1964, Mỹ phát hiện ra phía Tây Quảng Bình có hai tuyến đường chi viện quan trọng (đường 12 và đường 16), Mỹ cho hàng trăm lượt máy bay trút bom dữ đội xuống miền Tây Quảng Bình. Trong bom đạn ác liệt của kẻ thù, tiếng hô vang vọng của chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 14 Nguyễn Viết Xuân: ’’Nhằm thẳng quân thù mà bắn’’ đã trở thành khẩu hiệu bất tử, thể hiện tinh thần quyết đánh và quyết thắng của quân và dân ta trước cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ thù.
Qua hàng loạt cuộc khiêu khích trên biển, trên không, trên bộ từ đầu tháng 8 đến tháng 11-1964, đế quốc Mỹ đã bộc lộ ý đồ chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn, với mục đích hủy diệt Quảng Bình, hủy diệt miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 7-2-1965, vịn cớ "Trả đũa việc quân giải phóng miền Nam tiến công căn cứ Mỹ ở Plâycu", đế quốc Mỹ cho 49 máy bay đậu ở ngoài khơi Đà Nẵng, tiến hành chiến dịch "Mũi lao lửa 1" đánh phá Quảng Bình, mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc. Địch tổ chức tập kích thành 2 đợt, nhưng đợt nào chúng cũng bị đánh trả quyết liệt. Trong trận đầu đọ sức với máy bay Mỹ đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng. Hình ảnh mẹ Suốt chèo đò chở bộ đội qua sông, chiến sĩ dân quân Nguyễn Văn Tối và các em bé Bảo Ninh phối hợp chiến đấu, tiếp đạn cho tàu hải quân đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần dũng cảm đánh địch của bộ đội.
Như vậy là cùng với miền Bắc, Quảng Bình bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với một khí thế khẩn trương, chủ động, tự tin và quyết chiến quyết thắng. Quảng Bình cùng với cả nước và vì cả nước quyết tâm đánh thắng trận đầu, giáng cho kẻ thù những đòn trừng trị thích đáng, là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam.
Ngày 2-3-1965, máy bay Mỹ chia thành nhiều tốp luồn lách theo các khe núi để ném bom, đánh phá. Tại cảng Gianh, lúc 14 giờ 47 phút ngày 2-3, đế quốc Mỹ cho 160 lần chiếc máy bay cất cánh từ tàu sân bay mở cuộc tiến công lớn vào căn cứ hải quân nhằm tiêu diệt các tàu chiến và cơ sở cầu cảng. Được các trận địa bắn máy bay bằng súng bộ binh của quân dân xã Quảng Phúc, Thanh Trạch phối hợp, bộ đội cảng Gianh đã đánh bại trận tập kích lớn của không quân Mỹ, bắn rơi, bắn cháy 3 máy bay địch. Kết quả trong trận này, quân và dân Quảng Bình bắn rơi 11 máy bay Mỹ. Đây là chiến thắng lớn nhất của Quảng Bình trong tháng đầu chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ...
Tính đến cuối năm 1965, Quảng Bình đã bắn rơi 141 máy bay Mỹ, dân quân tự vệ độc lập bắn rơi 11 chiếc. Thắng lợi đó đã khẳng định Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình có quyết tâm chiến đấu cao, sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ hy sinh, quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.
Quảng Bình cũng là nơi bắn rơi chiếc máy bay thứ 100, 200, 300, 400, 500 và chiếc máy bay thứ 3000 trên miền Bắc. Với tinh thần "xe chưa qua nhà không tiếc", "đường chưa thông không tiếc máu xương", các lực lượng công binh, các chiến sĩ lái ca nô, thanh niên xung phong, dân công hoả tiến kể cả phụ nữ, thiếu niên đã dũng cảm phá bom lấp hố sữa đường, đưa phà, chèo đò cho bộ đội qua sông dưới làn bom đạn của địch. Tổng cộng cả hai lần chiến tranh phá hoại, quân và dân Quảng Bình đã bắn rơi 704 máy bay kể cả máy bay B52, F111, nhiều tên giặc lái bị bắt sống cùng với 86 tàu chiến bị bắn chìm và bắn cháy. Từ trong phong trào cách mạng sôi nổi ấy đã xuất hiện những đơn vị, cá nhân anh hùng, hàng nghìn chiến sĩ hai giỏi và có biết bao nhiêu tấm gương dũng cảm xả thân vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước như liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân, mẹ Suốt, Nguyễn Thị Kim Huế v.v... Những chiến công xuất sắc của quân và dân Quảng Bình trên mặt trận sản xuất và chiến đấu đã được Đảng và Chính phủ tặng thưởng nhiều Huân chương và nhiều danh hiệu cao quý. Có thể nói mảnh đất, con người Quảng Bình trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã thu hút sự chú ý, lòng kính phục của nhân dân cả nước và bè bạn khắp năm châu, xứng đáng với tên gọi Quảng Bình - Quê hương ’’2 giỏi’’.
Trong khi phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại vô cùng ác liệt của đế quốc Mỹ, vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhân dân Quảng Bình vẫn làm tròn nghĩa vụ đối với cách mạng miền Nam. Với tinh thần ’’thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người’’ toàn tỉnh đã huy động đến mức tối đa mọi sức người sức của cho tiền tuyến. Ngoài ra, Quảng Bình còn gửi hàng vạn người con ưu tú của quê hương tới khắp các mặt trận tham gia chiến đấu cùng với hơn 3000 thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ tiếp vận tải thương. Suốt trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại, Quảng Bình đã bảo đảm thông suốt con đường từ Bắc vào Nam để vận chuyển một khối lượng to lớn sức người sức của cho chiến trường. Bên cạnh đó, mảnh đất Quảng Bình còn vinh dự được Quân ủy Trung ương chọn nơi để mở những con đường chiến lược quan trọng chi viện cho miền Nam. Chính thôn Phong Nha huyện Bố Trạch là điểm xuất phát của con đường mòn Hồ Chí Minh "huyền thoại" trên bộ. Cùng với các chi nhánh quan trọng của nó, như tuyến đường 15 chạy dọc Trường Sơn, đường 12B từ miền Tây Tuyên Hóa qua Sê-Pôn, đường 16 từ làng Ho Lệ Thủy qua bản Đông, đường 20 từ Phong Nha qua tỉnh Khăm Muộn... tạo thành một hệ thống con đường chiến lược vĩ đại, vượt đèo, băng suối và vươn dài gần bằng nửa vòng trái đất. Cảng Gianh cũng là nơi khởi đầu của con đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ đơn vị quân sự vận tải đầu tiên ’’Tập đoàn đánh cá sông Gianh’’ các con tàu lần lượt vượt biển khơi đến với miền Nam ruột thịt.
Trong những năm 1973-1974, nhân dân Quảng Bình đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế. Đặc biệt về giao thông vận tải, nhiều bến cảng, tuyến đường, cầu cống được phục hồi và xây dựng lại, bảo đảm tăng nhanh tổng khối lượng hàng vận chuyển phục vụ chiến trường. Sự chi viện về vật chất, cán bộ của Quảng Bình dồn dập trong hai năm đó đã góp phần tạo thêm sức mạnh cho Trị Thiên - Huế và miền Nam giành toàn thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 lịch sử.
Có thể nói rằng, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Quảng Bình thực sự là vùng tuyến lửa của miền Bắc. Nếu tính gộp cả hai lần chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ đã cho đủ các loại máy bay đánh vào Quảng Bình hơn 8 vạn lần (trong đó có 2.172 lần bằng máy bay chiến lược B.52) với hơn 1,5 triệu tấn bom cùng hàng chục vạn quả rốc-két, tên lửa và tàu chiến đã bắn hơn 14 vạn quả pháo. Bom đạn Mỹ đã giết hại 12.330 người, làm bị thương 18.434 người. Đốt cháy và đánh sập hàng vạn nóc nhà. Trong khói lửa chiến tranh hủy diệt của kẻ thù, Quảng Bình đã rất xứng đáng với sứ mệnh mà cả nước giao phó. Vừa là tiền tuyến của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng.
Thời kỳ chống Pháp

w Chiến công trong chống Pháp:
- Quân dân tỉnh ta đã đánh 6.140 lớn nhỏ.
- Giết và bắt sống: 9.957 tên địch (trong đó có 1 trung tá,4 thiếu tá, 11 đại úy, 16 trung úy, thiếu úy, 10 đồn trưởng).
- Thu 8 máy vô tuyến điện, 732 súng các loại phá hỏng 118 xe quân sự, bắn bị thương 1 máy bay, phá hủy 3 ca-nô.
- Tuyên dương 3 anh hùng: Lâm Úy, Cao Thế Chiến, Trương Văn Ly.
w Những ngày lịch sử:
- Ngày 02-7-1945: Hội nghị cán bộ các cơ sở Đảng trong tỉnh họp ở chùa An Xá (Lệ Thủy) chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
- Ngày 04-7-1945: Hội nghị Việt Minh toàn tỉnh họp tại Trại sản xuất An Sinh (Trường Thủy - Lệ Thủy) triển khai nhiệm vụ khẩn cấp, thống nhất lực lượng, lấy tên "Việt Minh cô Tám", bầu Ban chấp hành Việt Minh 7 người và lập tờ báo "Vì nước’’.
- Đầu tháng 8-1945: Tỉnh bộ Việt Minh dời trụ sở từ Trung Lực - Mỹ Thổ về Võ Xá gần thị xã Đồng Hới.
- Ngày 17-8-1945: Hội nghị cán bộ Việt Minh họp tại Đồng Hới nghe đồng chí Tố Hữu truyền đạt lệnh của Trung ương về Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 23-8-1945: Khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Đồng Hới và các huyện trong tỉnh.
- Ngày 27-12-1945: Đội quân Nam tiến của Quảng Bình lên đường.
- Ngày 27-3-1947: Quân Pháp tấn công vào cửa Nhật Lệ, cửa Sông Gianh, 27-3 trở thành ngày Quảng Bình kháng chiến.
- Ngày 30-3-1947: Quân Pháp tiến đánh Lệ Thủy.
- Ngày 07-4-1947: Quân Pháp đánh ra Bố Trạch và Thổ Ngọa (Quảng Trạch).
- Ngày 10-4-1947: Quân Pháp đánh chiếm Minh Lệ, Tiên Lệ (Quảng Trạch), 15-4 chiếm Ba Đồn. Sau đó đánh làng Cự Nẫm.
- Ngày 17-4-1947: Quân Pháp đánh lên Minh Cầm (Tuyên Hóa)
- Ngày 25-4-1947: Pháp đánh vào làng Hòa Duyệt.(Bố Trạch)
- Ngày 13-7-1947: Chúng sát hại 45 bà con tản cư ở Thuận Đức (Đồng Hới), 24-7, chúng tấn công Rào Trù (Quảng Ninh) đốt phá bệnh viện, giết 30 người, 29-11 chúng tàn sát thảm khốc 300 người ở Mỹ Trạch Thượng (Mỹ Trạch Thượng), thiêu hủy 400 ngôi nhà.
- Ngày 12-8-1947: Tỉnh ủy mở hội nghị tại Thuận Đức bàn việc củng cố tổ chức Đảng và thống nhất lãnh đạo phong trào. Hội nghị có tính chất như một Đại hội. Đồng chí Nguyễn Văn Thanh được cử làm Quyền Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Thanh, Hồng Xích Tâm, Nguyễn Đình Chuyên trong Ban Thường vụ.
- Ngày 28-7-1947: Đồng chí Hoàng Văn Diệm được Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV quyết định cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Bình.
- Ngày 02-9-1949: Trung đoàn 18 được thành lập tại Còi (Tuyên Hóa) gồm 2 tiểu đoàn 274 và 436.
- Ngày 20-7-1948: Tổ dân quân do xã đội trưởng Nguyễn Đăng Thái xã Bắc Trạch (Bố Trạch) đã dùng mẹo "ôm hè" cướp được 3 khẩu súng của địch giữa ban ngày, mở đầu cho phong trào "ôm hè", tay không cướp súng giặc trong toàn tỉnh.
- Năm 1947: Tỉnh ta có các tờ báo "Thống nhất" cơ quan của Hội Liên Việt, tờ "Công giáo kháng chiến’’ cơ quan Giáo vận, tờ ’’Inforlnation" của cơ quan tuyên truyền địch vận.
- Ngày 06-01-1948: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất họp tại thôn Đại Hòa (Tuyên Hóa) có 56 đại biểu đại diện cho 983 đảng viên toàn tỉnh về dự. Đồng chí Nguyễn Văn Thanh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Ngày 07-01-1948: Địch cho 100 quân nhảy dù xuống Bang đốt phá nhà cửa, giết 10 người và bắt đi 30 người.
- Tháng 6-1948: Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV phát động thi đua ái quốc, xây dựng nhiều làng chiến đấu như Cự Nẫm.
- Ngày 12-7-1948: Pháp huy động 500 bộ binh phối hợp với quân nhảy dù với 28 xe, 8 ca nô mở trận càn quét lớn ở vùng Ròn và làng Cảnh Dương. Dân quân diệt 11 tên Pháp (có một quan ba).
- Ngày 10-8-1948: Quân ta phục kích đánh địch tại Tiên Lương (Quảng Trạch) diệt 17 tên, có 14 tên Pháp. Ba tên Nguyễn Hữu Nhơn, tỉnh trưởng, Hoàng Toản, tỉnh phó, Tôn Thất Cảnh, huyện trưởng Quảng Trạch đã bị chết trong trận này.
- Ngày 14-5-1949: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 2 họp tại Kim Bảng (Minh Hóa), 90 đại biểu thay mặt cho 4.698 đảng viên đã về dự. Đồng chí Võ Thúc Đồng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Ngày 15-7-1949: Được cuộc họp Tỉnh ủy bất thường quyết định làm ngày "Quảng Bình quật khởi’’ mở đầu tuần lễ ’’Tích cực cầm cự, chuẩn bị Tổng phản công’’ trên đất Quảng Bình. Tờ báo ’’Dân muốn’’ đổi thành tờ "Đánh mạnh’’.
- Ngày 16-7-1949: Dân quân Lộc Long (Quảng Ninh) đã phục kích địch từ đồn Xuân Dục về càn, nổ quả bom làm tên đồn trưởng bị thương nặng, nhiều tên khác bị thương, mở màn chiến dịch Quảng Bình quật khởi.
- Ngày 25-12-1949: Quân ta chống càn thắng lợi ở Thạch Xá (Lệ Thủy) diệt và làm bị thương 30 tên, bắt sống 51 tên, thu 60 súng, phá hủy 7 xe.
- Ngày 31-12-1949: Binh sĩ làm binh biến ở đồn Cổ Hiền (Quảng Ninh) diệt 3 sĩ quan Pháp.
- Ngày 27-02-1950: Chiến thắng Phú Trịch (Quảng Trạch) ta diệt 120 tên địch, bắt sống 10 tên, bắn cháy 4 ca nô.
- Tháng 5-1950: Chiến thắng Xuân Bồ, ta diệt 200 tên địch trên sông Kiến Giang. Xuất hiện gương anh hùng Lâm Úy.
- Ngày 25-5-1950: Công an thị xã diệt tên Lưu Đức Trừng, Trưởng ty an ninh của địch tại nhà riêng ở Đồng Hới.
- Ngày 02-7-1950: Tỉnh ủy mở hội nghị Đảng vụ bàn về dân chủ đấu tranh đoàn kết trong cán bộ, đảng viên.
- Ngày 21-10-1950: Trận lụt lịch sử gây hậu quả nghiêm trọng: 137 người chết, mất 50% tài sản nhà cửa, hàng ngàn gia súc, chủ yếu là ở Lệ Thủy.
- Ngày 11-8-1951: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 3 họp tại Bến Tiêm (chiến khu Quảng Ninh) có gần 200 đại biểu vùng tự do và địch hậu về dự. Đồng chí Trương Văn Địch được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Nháng 12-1951, trước áp lực của quân dân ta, địch buộc phải rút đồn Cự Nẫm và một số đồn bốt trong tỉnh.
- Ngày 15-02-1952: Đánh địch ở ngoài đồn Sen Hạ, diệt 12 tên, bắt sống 2 tên, thu 7 súng.
- Ngày 25-3-1952: Đánh địch càn quét vùng Vạn Lộc - Hoàn Lão, diệt 250 tên.
- Ngày 19-5-1952: Trung đoàn 95 san bằng đồn Sen Bàng, diệt và bắt toàn bộ quân địch, giải phóng 3.500 giáo dân.
- Ngày 31-5-1952: giải phóng Ba Đồn và Mỹ Hòa, diệt và làm bị thương 180 tên địch, thu 200 súng, 5 tấn đạn.
- Ngày 11-7-1952: Tiêu diệt lô cốt Lộc Đại (Quảng Ninh nay thuộc thị xã Đồng Hới).
- Đầu năm 1953: Diệt các đồn Võ Xá, Thạch Xá Hạ.
- Ngày 06-4-1953: Diệt các đồn Bình Phúc, Mỹ Phước.
- Ngày 20-3-1954: Ta diệt đồn Thượng Phong (Lệ Thủy).
- Ngày 07-5-1954: Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
- Ngày 02-7-1954: 6.000 dân Hoàn Lão (Bố Trạch) biểu tình chống địch đàn áp khủng bố, đòi thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ.
- Ngày 25-7-1954: Ta diệt gọn vị trí Bến Mốc (Lệ Thủy)
- Ngày 01-8-1954: Lệnh ngừng bắn được ban hành trong toàn tỉnh. Thành lập ủy ban quân chính do đồng chí Nguyễn Tư Thoan, Phó bí thư kiêm Chủ tịch.
- Từ 01 đến 06-8: Địch rút đồn Am Tiến, Vạn Lộc, Cồn Trụm, Lý Hòa, Trần Xá, Đức Phổ, Vĩnh Tuy, Lệ Kỳ, Tuy Lộc.
- Ngày 11-8: Địch rút Hoàn Lão, Chánh Hòa,
- Ngày 17-8: Địch rút khỏi Thanh Khê
- Ngày 18-8-1954: Tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi cửa biển Nhật Lệ. 15 giờ cùng ngày bộ đội và nhân dân ta vào tiếp quản thị xã.
- Ngày 20-8-1954: Ủy ban quân chính ra mắt.
- Ngày 02-9-1954: Mít tinh lớn tại thị xã chào mừng thắng lợi sau 9 năm kháng chiến gian khổ.
(Từ khi nổ súng kháng chiến cho đến khi kết thúc là 7 năm 4 tháng 23 ngày).
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét