QUẢNG NGÃI
- quê hương của nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng - là một
mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, lao động cần
cù, sáng tạo. Tiếp xúc với tiến trình phát triển của đất Quảng Ngãi theo
suốt chiều dài lịch sử, người ta không khỏi ngạc nhiên bởi những đóng
góp của mảnh đất này vào sự phát triển kinh tế xã hội - văn hóa của cộng
đồng các dân tộc Việt
Nam.
Nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật về thời kỳ đồ
đá, chứng tỏ mảnh đất này từng có con người sinh tụ và đã có sự hiện
diện của một nền văn minh từ thời thượng cổ. Quảng Ngãi là nơi phát hiện
đầu tiên, cũng là cái nôi của nền văn minh - văn hóa Sa Huỳnh, có niên
đại cách nay 2.500 - 3.000 năm, với những di chỉ hết sức phong phú ở Sa
Huỳnh, Thạnh Đức, Kế tiếp Văn hóa Sa Huỳnh là Văn hóa Chămpa với
kiến trúc thành Châu Sa, tháp Chánh Lộ quy mô, bề thế, mang một phong
cách riêng, cùng nhiều di chỉ, di tích khác có niên đại cách đây hàng
ngàn năm.
Kế sau Chămpa, văn hóa Việt trở thành dòng chủ đạo của nền văn hóa đa
dân tộc, tiếp tục phát triển từ thế kỷ XV trở về sau. Trong sự giao
thoa, chuyển tiếp với Văn hóa Chămpa, sự giao lưu văn hóa với các dân
tộc anh em bản địa miền núi là các pha trộn
với người Hoa và một số dân tộc khác, đã nhào nặn nơi đất này một sắc
thái văn hóa khá độc đáo, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân
tộc Việt Nam.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, lam sơn chướng khí bị đẩy
lùi, hình thành nên làng mạc, ruộng đồng, kênh mương, nhà cửa, cây đa,
bến nước, đình làng, thành quách, phố xá, nơi lưu dấu biết bao mồ hôi,
xương máu, nước mắt và nụ cười của lớp lớp thế hệ chủ nhân đất Quảng
Ngãi.
Các dân tộc ở Quảng Ngãi là người dân Việt Nam, mang đặc tính chung
của người Việt Nam và với sự nỗ lực của mình, người Quảng Ngãi đã góp
phần tô đậm những nét đẹp quý báu của người Việt Nam. Qua thử thách
trong môi trường tự nhiên và xã hội khắc nghiệt, người Quảng Ngãi đã rèn
đúc cho mình thêm sự cứng cỏi, dẻo dai, không chỉ có sức chịu đựng mà
còn đủ ý chí, nghị lực, sức sáng tạo để cải biến tự nhiên, xây dựng xã
hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Ngược dòng lịch sử, vào thế kỷ
XVIII, cùng với Bình Định, Quảng Ngãi cũng được xem là cái nôi của phong
trào nông dân Tây Sơn ngay từ khi nó mới khởi phát và sau đó đã có những
đóng góp không nhỏ vào các cuộc chống ngoại xâm của dân tộc, tạo lập nên
các chiến công oanh liệt đánh tan quân Xiêm, đại phá quân Thanh. Quảng
Ngãi là quê hương của Trần Quang Diệu, Trương Đăng Đồ và nhiều vị văn
thần, võ tướng khác của nhà Tây Sơn. Thời Pháp khởi sự xâm lược Việt
Nam, Quảng Ngãi có Hộ đốc Võ Duy Ninh là vị chỉ huy cao cấp đầu tiên của
triều đình Huế tử tiết vì thành Gia Định (1859); tiếp sau có Bình Tây
Đại nguyên soái Trương Định trở thành một thủ lĩnh nghĩa quân Nam Kỳ
chống Pháp. Sau ngày Kinh đô Huế thất thủ (1885), Quảng Ngãi là nơi phất
cờ khởi nghĩa Cần vương chống Pháp đầu tiên ở Nam Trung Kỳ, dưới sự lãnh
đạo của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân và mặc dù bị kẻ địch dìm trong bể
máu, phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi vẫn liên tục tồn tại hàng chục
năm sau. Đầu thế kỷ XX, Quảng Ngãi ghi dấu vào lịch sử Việt Nam bằng
những hoạt động mạnh mẽ, tích cực của Duy tân Hội, với các chí sĩ yêu
nước Lê Đình Cẩn, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết… đặc biệt là phong trào
cự sưu, khất thuế rầm rộ, có tiếng vang trong khắp cả nước thời bấy giờ.
Mặc dù bị kẻ địch đàn áp khốc liệt, nhiều nhà yêu nước và quần chúng bị
địch giết hại, tù đày nhưng phong trào yêu nước ở Quảng Ngãi vẫn được
tiếp nối với Việt Nam Quang phục Hội, xuất hiện hàng loạt chí sĩ, như Lê
Ngung, Nguyễn Thụy, Phạm Cao Chẩm... trong cuộc khởi nghĩa bất thành năm
1916. Các phong trào, hoạt động yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
tuy bị đàn áp đẫm máu, khốc liệt, nhưng lòng yêu nước của người dân
Quảng Ngãi không vì thế mà bị dập tắt, nguội lạnh; ngược lại, nó đã liên
tục bùng lên mạnh mẽ, nhất là sau khi Ðảng Cộng sản Việt Nam rồi Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Tiếng trống vang động ngay từ
năm 1930 đã lan ra toàn tỉnh. Người Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi là đồng chí Nguyễn Nghiêm hy sinh, nhưng cuộc đấu tranh cách
mạng giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển. Nhiều cán bộ Quảng Ngãi
cũng góp sức cho phong trào cách mạng ở các tỉnh bạn, nhất là các tỉnh
Nam Trung Kỳ. Nhiều chiến sĩ cộng sản xuất hiện như những tấm gương sáng
ngời trong đấu tranh cách mạng. Quảng Ngãi là nơi bùng nổ của Khởi nghĩa
và thành lập Đội du kích - tiền thân của lực lượng vũ trang
Liên khu V. Trong Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi là nơi diễn ra cuộc
Tổng khởi nghĩa sớm trong cả nước (14.8.1945) và trở thành cái nôi của
vùng tự do Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi có những sự kiện quan trọng như cuộc Khởi
nghĩa và miền Tây Quảng Ngãi tháng 8.1959, Chiến thắng Ba Gia
31.5.1965, Chiến thắng Vạn Tường 18.8.1965, đánh dấu được những chiến
công huy hoàng; đồng thời, Quảng Ngãi cũng là nơi chịu nhiều đau thương
mất mát, điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ 16.3.1968, làm chấn động dư
luận thế giới và lương tâm loài người.
Trải qua các cuộc chiến tranh
vệ quốc, Quảng Ngãi đã xuất hiện biết bao tấm gương hy sinh vì nước, rèn
đúc được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều vị tướng lĩnh tài ba thao lược, như
Nguyễn Chánh, Trần Văn Trà, Phạm Kiệt, Trần Quý Hai, Trần Nam Trung,
Nguyễn Đôn… và nổi bật là đồng chí Phạm Văn Đồng, người hiến dâng cả
cuộc đời cho cách mạng và để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX.
Quảng Ngãi không chỉ nổi bật ở
truyền thống yêu nước và cách mạng, mảnh đất này còn nổi bật ở truyền
thống lao động sáng tạo, truyền thống văn hóa, tinh thần hiếu học.
Từ nhiều thế kỷ trước, hàng
trăm guồng xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ đã được xây dựng kỳ vĩ
giữa non sông, khiến khách qua đây không khỏi ngạc nhiên, khâm phục và
liên tưởng đến hình ảnh của sự nhẫn nại, đức cần cù và tiềm năng sáng
tạo lớn lao của người dân miền Ấn - Trà. Từ một vùng quê nhiều giông
bão, lũ lụt, hạn hán, bằng bàn tay và khối óc của mình, con người nơi
đây đã cải biến cả vùng đất thiên nhiên khắc nghiệt này thành nơi đất
lành. Sản vật của tự nhiên qua bàn tay con người đã trở thành những món
ăn đậm phong vị quê hương. Từ loài cá bống, cá thài bai nhỏ nhoi trên
sông Trà mà khiến người nơi xa phải nhớ. Từ loài nhuyễn thể vùng nước lợ
mà thành món don đậm hương quê nhà. Quảng Ngãi còn nổi tiếng là xứ sở
mía đường, là nơi sản xuất đường phèn, đường phổi, kẹo gương, mạch nha
và rất nhiều món ăn đặc sản khác. Ở miền núi thì có ốc đá, cá niêng, có
rượu đót, rượu cần. Ở hải đảo thì có hải sâm và nhiều loài hải sản mặn
mà vị biển. Đồng bằng có vị ngọt của mía thì miền núi có vị thơm nồng
của quế vị thơm cay của cau vị ngọt chát của
chè vị ngọt lịm của dứa
Vượt lên những lo toan cơm áo
hằng ngày, người Quảng Ngãi biết tạo dựng nhà rường, nhà lá mái ở miền
xuôi, nhà sàn ở miền núi. Những câu ca dao, điệu hò, điệu lý, hát bả
trạo, sắc bùa, bài chòi ở miền xuôi; những khúc dân ca, dân nhạc miền
núi; những lễ hội… cùng tạo cho cuộc sống người dân đất này thêm phần
đáng yêu và mang nhiều dáng nét riêng. Quảng Ngãi là nơi sinh thành của
một số nhà thơ, của các nghệ sĩ lớn của đất nước. Quảng Ngãi nổi tiếng
là đất học từ xưa với nhiều nhà khoa bảng Nho học, sang thời kỳ Tân học
và nền giáo dục cách mạng càng nổi lên truyền thống hiếu học với nhiều
người học giỏi, nhiều người trở thành những nhà học thuật nổi tiếng
trong nước.
Từ sau khi đất nước hòa bình,
thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ sau khi Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương
đổi mới (1986), mở cửa hội nhập khu vực, quốc tế, Quảng Ngãi đã có những
bước phát triển căn bản về nhiều mặt. Quảng Ngãi đã hoàn thành công
trình đại thủy nông Thạch Nham, tưới cho 50.000ha đất canh tác, tạo nên
một sức bật mới cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Các Khu công nghiệp
Quảng Phú, Tịnh Phong hình thành. Đặc biệt, Khu Kinh tế Dung Quất trong
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được xây dựng, tạo ra một bước đột
phá mới cho kinh tế của tỉnh. Thị xã Quảng Ngãi đã trở thành thành phố
trực thuộc tỉnh. Các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng phát
triển. Lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều chuyển biến đi lên. Đời
sống mọi mặt của người dân Quảng Ngãi ngày càng được nâng cao.
Sự phát triển sinh động, phong phú về nhiều mặt của Quảng Ngãi trong
sự phát triển chung của đất nước là thuận lợi rất lớn nhưng đồng thời tự
thân nó cũng là một thử thách không nhỏ đối với người nghiên cứu. Vấn đề
đầu tiên mà những người thực hiện tự hỏi là mình nghiên cứu như thế là
đã đúng, đầy đủ, tương xứng, phù hợp với hiện thực của Quảng Ngãi trong
quá khứ và hiện tại hay chưa? Đây lại là công trình địa chí Quảng Ngãi
đầu tiên kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Hiểu được những khó khăn
ấy, để các nhà nghiên cứu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Hội đồng Biên
soạn công trình đã bàn bạc, đề ra nhiều giải pháp, biện pháp thực hiện
đúng định hướng và có hiệu quả theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Hội đồng đã mời Phó Giáo sư Trần Nghĩa, Giáo sư Phan Ngọc Liên làm cố
vấn chuyên môn và giúp chỉnh biên toàn bộ công trình; đã mời các nhà
nghiên cứu, các cán bộ có chuyên môn vững trong tỉnh và trong nước hình
thành các tổ tham gia nghiên cứu, biên soạn các phần của công trình. Một
khối lượng công việc rất lớn, nhưng quỹ thời gian và điều kiện lại rất
có hạn. Trong hai năm 2004 - 2005, những người thực hiện đã làm việc cật
lực để công trình hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Cho đến
cuối năm 2005, công trình đã cơ bản hoàn thành khối lượng như kế hoạch
đề ra, kịp ra mắt chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ
XVII.
"Địa chí Quảng Ngãi" là một công trình khoa học lớn của tỉnh nhà, với
rất nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với loại công
trình như thế này, bản thân những người nghiên cứu dù đã hết sức cố gắng
vẫn không dám quả quyết rằng mọi thứ đều đã tốt đẹp. Dù đã nghiên cứu
nghiêm túc, nhưng cho đến sau khi xuất bản, công trình vẫn rất cần sự
chỉnh sửa, bổ khuyết, rất cần sự đóng góp chân thành của độc giả để ngày
càng tiến đến hoàn thiện.
Thay mặt Hội đồng Biên soạn công trình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
Ban Chỉ đạo công trình, cảm ơn các cơ quan, đơn vị, cá nhân, địa phương
đã hết sức giúp đỡ, đặc biệt cảm ơn các nhà nghiên cứu đã không quản
gian khó, đem hết tâm lực của mình để công trình đạt kết quả cao nhất.
TS. NGUYỄN KIM HIỆU
Chủ tịch Hội đồng Biên soạn
BIÊN NIÊN SỬ QUẢNG NGÃI 1402- 2005
Năm
1402
-
Vua Chămpa là Ba Đích Lại (Jaya Shinhavarman V; cg. Bố Để) nhường đất Chiêm
Động (nay là phần lớn tỉnh Quảng Nam) và Cổ Lũy Động (tương đương
tỉnh Quảng Ngãi) cho nhà Hồ.
- Nhà
Hồ thiết lập các Châu Thăng, Hoa (Chiêm Động), Tư, Nghĩa (Cổ Lũy Động) thuộc lộ
Thăng Hoa; phong Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa; Chế Ma Nô Đà Nan
(người Chăm) làm Cổ Lũy huyện thượng hầu, trấn giữ châu Tư, châu Nghĩa.
Năm
1403
- Nhà
Hồ tổ chức di dân người Việt từ phía Bắc vào lộ Thăng Hoa.
Năm
1407
- Nhà
Minh xâm lược nước Đại Ngu (Đại Việt), nhà Hồ mất ngôi. Vương quốc Chămpa chiếm
đất Thăng Hoa.
Năm
1418
-
Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa chống quân Minh ở Lam Sơn (Thanh Hóa).
Năm
1427
- Cuộc
kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo giành thắng lợi.
Năm
1470
-
Vua Chămpa là Bàn La Trà Toàn đánh úp Châu Hóa (nay là tỉnh Thừa Thiên- Huế).
Vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) xuống chiếu thân chinh đánh Chămpa để thu phục đất
cũ.
Năm
1471
- Quân
Đại Việt lấy lại Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chiếm kinh đô Chà Bàn (nay thuộc tỉnh
Bình Định) của Vương quốc Chămpa.
-
Tháng 6 âm lịch, thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa,
Hoài Nhân. Phủ Tư Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi.
Năm
1527
-
Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc.
Năm
1533
-
Nguyễn Kim nổi lên chống nhà Mạc, tôn Lê Duy Ninh (cháu xa đời vua Lê Thánh
Tông) lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Trung Tông, hình thành cục diện Nam- Bắc
triều (Nam: Lê Trung hưng; Bắc: Mạc).
Năm
1545
- Tướng
của Nguyễn Kim là Bùi Tá Hán được giao nhiệm vụ trấn thủ Quảng Nam (nay là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng).
Năm
1558
-
Nguyễn Hoàng nhận nhiệm vụ trấn thủ Thuận Hóa.
Năm
1568
-
Trấn thủ Quảng Nam là Bùi Tá
Hán qua đời, Nguyễn quận công Nguyễn Bá Quýnh được cử làm tổng binh thay Bùi Tá
Hán trấn thủ Quảng Nam.
Năm
1570
- Nguyễn
Bá Quýnh được điều chuyển ra Bắc.
-
Trấn thủ Thuận Hóa là Nguyễn Hoàng được kiêm trấn thủ Quảng Nam.
Năm
1602
-
Trấn Quảng Nam đổi thành
dinh Quảng Nam; phủ Tư Nghĩa
(thuộc dinh Quảng Nam)
đổi thành phủ Quảng Nghĩa/Ngãi (danh xưng Quảng Ngãi/ Nghĩa lần đầu tiên xuất
hiện; phủ Quảng Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi).
Năm
1771
-
Khởi nghĩa Tây Sơn.
Năm
1776
- Nhà
Tây Sơn đổi tên phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa.
Năm
1802
- Nguyễn
Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn.
Năm
1803
- Nhà
Nguyễn đổi phủ Hoà Nghĩa trở lại tên cũ là phủ Quảng Nghĩa.
Năm
1807
- Xã
Cù Mông (sau đổi là xã Chánh Mông rồi Chánh Lộ) được chọn làm nơi xây dựng tỉnh
Quảng Ngãi.
Năm
1819
- Ông
Trương Đăng Quế đỗ Hương tiến (cử nhân), khai khoa cho sĩ tử Quảng Ngãi thời
phong kiến.
Năm
1832
- Tỉnh
Quảng Nghĩa/Ngãi được thành lập. Cả nước lúc này có 30 tỉnh và 1 phủ (kinh đô
Thừa Thiên).
Năm
1834
- Lấy
kinh sư (Thừa Thiên) làm trung tâm, triều đình nhà Nguyễn chia cả nước thành
các trực kỳ trong đó tả trực gồm 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Năm
1842
-
Ông Trương Đăng Trinh đỗ Tiến sĩ (vị Tiến sĩ đầu tiên của Quảng Ngãi)
Năm
1858
- Liên
quân Pháp- Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến xâm lược Việt Nam.
Năm
1859
- Pháp
chiếm Gia Đinh, Hộ đốc thành Gia Định là Võ Duy Ninh (người huyện Nghĩa Hành)
tuẫn tiết.
Năm
1883
- Triều
đình Huế và Pháp ký hiệp ước Hácmăng (Harmand) còn gọi là hiệp ước Quý Mùi.
Năm
1884
- Triều
đình Huế và Pháp ký hiệp ước Patơnốt (Patenôte) còn gọi là hiệp ước Giáp Thân.
- Với
2 hiệp ước Quý Mùi và Giáp Thân, nước Việt Nam, trong đó có tỉnh Quảng Ngãi,
đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Năm
1885
- Đêm
4 rạng ngày 5.7: Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Tân Sở.
- Ngày13.7:
Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần vương.
-
Đêm 13.7 (1.6 Âm lịch): Lê Trung Đình khởi nghĩa (cuộc khởi nghĩa Cần vương đầu
tiên ở Trung Kỳ).
- Ngày
17.7: Cuộc khởi nghĩa của Lê Trung Đình thất bại. Nguyễn Tự Tân hy sinh tại
trận, Lê Trung Đình bị bắt, sau đó bị hành hình.
Năm
1894
- Khởi
nghĩa Nguyễn Vịnh- Thái Thú.
Năm
1896
- Cuộc
vận động cứu nước của Trần Du thất bại. Phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi kết
thúc.
Năm
1901
- Pháp
xây dựng Bưu điện tỉnh Quảng ngãi (tên dân gian là Nhà Dây Thép).
Năm
1906
- Hội
Duy tân (Duy tân Hội) Quảng Ngãi thành lập.
Năm
1907
- Thành
lập Trường Tiểu học Pháp- Việt ở Quảng Ngãi.
Năm
1908
- Phong
trào kháng thuế- cự sưu nổ ra ở Trung Kỳ, mạnh nhất là ở Quảng Nam, Quảng
Ngãi.
Năm
1916
- Cuộc
mưu khởi của Việt Nam Quang phục Hội (khởi nghĩa Duy tân) thất bại.
Năm
1920
- Chiếc
máy bay đầu tiên hạ cánh xuống Quảng Ngãi tại địa điểm nay là sân bay Quảng
Ngãi (Trường Tàu).
Năm
1923
- Thành
lập Hội Thiếu niên Ái quốc tại Quảng Ngãi.
Năm
1924
-
Thành lập Công Ái xã tại Quảng Ngãi.
- Pháp
cho dựng trụ đèn thắp sáng bằng acétylen (đất đèn) tại ngã tư chính- tỉnh lỵ
Quảng Ngãi.
Năm
1926
- Thành
lập Tỉnh bộ Tân Việt Quảng Ngãi.
Năm
1927
- Thành
lập Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Ngãi, do Trương Quang Trọng
làm Bí thư.
Năm
1929
- Tháng
5: Đại hội lần thứ I của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức tại Quảng
Châu (Trung Quốc).
-
Tháng 6: Tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời.
-
Tháng 7: Tổ chức An Nam Cộng sản Đảng ra đời.
- Tháng
9: Thành lập tổ chức “Dự bị Cộng sản” tại Quảng Ngãi, tổ chức Đông Dương Cộng
sản liên đoàn ra đời.
Năm
1930
-
Thàng 2: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2).
-
Tháng 3: Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi ra đời, do
Nguyễn Nghiêm là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời.
-
Tháng 6: Đại hội đại biểu lần I Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi, Nguyễn Nghiêm
được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
-
Tháng 10: Quần chúng biểu tình, chiếm huyện đường Đức Phổ (đêm ngày 7 rạng ngày
mùng 8).
-
Quần chúng biểu tình thị uy và xung đột với lính khố xanh ở Sơn Tịnh (đêm 30
rạng ngày 31).
-
Biểu tình lớn của quần chúng ở Mộ Đức.
- Năm
này Pháp cho đặt một máy phát điện công suất nhỏ tại Gốc Gáo (gần cửa Tây tỉnh
thành) phục vụ thắp sáng nội thành Quảng Ngãi.
Năm
1931
-
Tháng 1: Liên tiếp những cuộc biểu tình do Đảng bộ Quảng Ngãi lãnh đạo với sự
tham gia của đông đảo quần chúng diễn ra ở Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Bình Sơn, Mộ
Đức,…
- Tháng
3: Ngày 24, Nguyễn Nghiêm bị xử chém.
- Tháng
4 – tháng 5: Liên tục những cuộc biểu tình rầm rộ diễn ra khắp nơi trong tỉnh,
đặc biệt là vào dịp Quốc tế Lao động 1.5.
Năm
1932
- Tháng
1: Ngày 23, Cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh được khôi phục, do Võ Sỹ làm Bí
thư.
Năm
1934
- Tháng
6: Ngày 25 (14.5 Âm lịch), Bảo Đại ra dụ số 23 thiết lập trung tâm đô thị, quần
cư ở Quảng Ngãi (tước danh lịch tòa thành Quảng Ngãi, thành lập đô thị trung
tâm của tỉnh).
Năm
1935
- Tháng
1: Pháp hoàn thành xây dựng ga Quảng Ngãi.
- Tháng
3: Khoảng 3 vạn quần chúng kéo về tỉnh lỵ đón Gôđa (Godard), đưa bản “dân
nguyện”.
- Phong
trào “Nước xu đỏ” chống Pháp của đồng bào Tây Nguyên lan đến miền núi Quảng
Ngãi.
- Tháng
7: Ngày 12, Pháp mở phiên tòa xử vụ “Tái tổ Đảng Cộng sản Đông Dương”.
Năm
1942
- Thành
lập Chi bộ Đảng Cộng sản ở Cảng An trí Ba Tơ.
Năm
1945
- Tháng
3:
+
Ngày 9, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cỏi Đông Dương
+
Ngày 11, Khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi.
- Tháng
8:
+
Ngày 14, Phát lệnh khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh.
+
Ngày 16, Cách mạng tháng Tám thành công ở Quảng Ngãi.
+
Ngày 19, Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội.
+
Ngày 25, Việt Minh Quảng Ngãi và quân Nhật ký hiệp ước để quân Nhật rút khỏi
Quảng Ngãi. Lần đầu tiên Quảng Ngãi sạch bóng quân xâm lược.
+
Ngày 30, Mít tinh chào mừng khởi nghĩa thắng lợi và ra mắt Ủy ban nhân dân Cách
mạng tỉnh Lê Trung Đình (tên mới của tỉnh Quảng Ngãi).
- Tháng
9: Ngày 2, Mít tinh lớn ở quảng trường Ba Đình; Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập.
- Ngày
23: Hội nghị đại biểu các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh Quảng Ngãi, quân
Pháp trở lại xâm lược nước ta.
-
Tháng 10: Thành lập Trường Trung học Lê Khiết.
Năm
1946
- Tháng
1: Ngày 6, bầu cử Quốc hội đầu tiên trong cả nước.
- Tháng
2: Ngày 17, bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng
4: Ngày 14, bầu cử Hội đồng nhân dân các xã trong tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng
5: Thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng
6: Đại hội đại biểu lần thứ I Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp.
- Tháng
12:
+
Ngày 19, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến (đêm
19.12.1946).
+
Ngày 22, Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn dân kháng chiến.
Năm
1947
- Tàu
chiến Pháp bắn đại bác vào thị xã Quảng Ngãi (2.1.1947).
- Trường
Trung học bình dân Nam Trung Bộ khai giảng khóa đầu tiên.
- Xã
Bình Chánh (huyện Bình Sơn) trở thành xã đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi thanh
toán nạn mù chữ.
Năm
1948
- Huyện
Tư Nghĩa trở thành huyện đầu tiên ở Nam Trung Bộ thanh toán nạn mù chữ.
- Tỉnh
Quảng Ngãi (trừ các huyện miền núi) là một trong 10 tỉnh trong cả nước thanh
toán nạn mù chữ.
- Nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi được Chính phủ tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất về thành
tích tăng gia sản xuất và xóa nạn mù chữ.
Năm
1949
- Tháng
12: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 149 tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng
hai cho cán bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Năm
1950
- Đại
hội lần thứ II Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Pháp.
- Tháng
1: Nổ ra “vụ Sơn Hà”, do thực dân Pháp và tay sai xúi giục, sắp đặt.
- Tháng
3: Đại hội lần thứ III Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống Pháp
(14-20.3).
Năm
1951
- Tháng
9: Pháp chiếm đảo Lý Sơn.
Năm
1952
- Đại
hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Pháp (26.3-12.4).
Năm
1953
- Phát
động quần chúng triệt để giảm tô, cải cách ruộng đất ở Quảng Ngãi.
Năm
1954
- Tháng
1-2: Chiến thắng Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum.
- Tháng
5: Ngày 7, chiến thắng Điện Biên Phủ.
- Tháng
7: Ngày 20, ký kết Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.
- Tháng
10: Đối phương bắt đầu tiếp quản tỉnh Quảng Ngãi.
Năm
1955
- Tháng
5:
+
Ngày 16, thời hạn chuyển quân tập kết chấm dứt, quyền quản lý hành chính tỉnh
Quảng Ngãi thuộc về chính quyền Ngô Đình Diệm.
+
Mỹ - Diệm phát động chiến dịch “Tố Cộng - diệt Cộng”.
- Tháng
10: Thành lập Trường Trung học Trần Quốc Tuấn.
Năm
1957
- Tỉnh
ủy Quảng Ngãi nhận được tài liệu “Bàn về Cách mạng miền Nam” do đồng
chí Lê Duẩn khởi thảo từ Nam Bộ gửi ra.
Năm
1958
- Tháng
7: Đại hội đại biểu nhân dân các dân tộc miền tây Quảng Ngãi bàn về đoàn kết
dân tộc, chuẩn bị đánh Mỹ - Diệm, tổ chức tại Gò Rô, huyện Trà Bồng (Đại hội Gò
Rôi), nay thuộc xã Trà Phong, huyện Tây Trà.
- Chính
quyền Sài Gòn xây dựng sân bay Quảng Ngãi. Lần đầu tiên Quảng Ngãi có đường
hàng không.
Năm
1959
-
Tháng 3: Ngày 3, thành lập đơn vị 339, đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh trong
chống Mỹ tại Nước Xoay, xã Trà Thọ, Trà Bồng (nay thuộc huyện Tây Trà).
-
Tháng 8:
+
Ngày 19, thành lập đơn vị 89 tại khu VII (vùng cao huyện Sơn Hà, nay là huyện
Sơn Tây).
+
Ngày 28, Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi.
+
Ngày 31, thành lập đơn vị 299 tại vùng Nước Giáp, ranh giới 3 huyện Minh Long,
Sơn Hà và Ba Tơ.
- Tháng
9: Ngày 5, giải phóng khu VII, nay là huyện Sơn Tây.
- Năm
này chính quyền Sài Gòn khởi công xây dựng đài nước cho vùng nội thị. Năm 1963
đài nước này mới hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Năm
1960
- Tháng
2: Đại hội lần thứ I Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ.
- Tháng
12: Ngày 20, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Năm
1963
- Tháng
11: Ngày 1, đảo chính tại Sài Gòn, Ngô Đình Nhu bị nhóm tướng lĩnh làm đảo
chính giết chết.
Năm
1964
- Tháng
10: Xảy ra trận lụt lịch sử (lụt Giáp Thìn) gây thiệt hại lớn về sinh mạng và
tài sản của nhân dân trong tỉnh.
Năm
1965
-
Tháng 1: Đại hội lần thứ II Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống
Mỹ.
- Tháng
5:
+
Chính quyền cách mạng quyết định thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi, gồm vùng
nội thị, xã Nghĩa Điền, xã Nghĩa Lộ (về sau mở rộng gồm cả xã Nghĩa Dõng, nay
thuộc thành phố Quảng Ngãi, và thôn Đông Dương thuộc huyện Sơn Tịnh).
+
Ngày 31, chiến thắng Ba Gia.-
-
Tháng 6: Trận đánh Mỹ đầu tiên trên đất Quảng Ngãi; quân và dân xã Bình Đông
(huyện Bình Sơn) đánh mìn chìm 1 canô, diệt 7 lính Mỹ.
- Tháng
8: Ngày 18, chiến thắng Vạn Tường.
- Tháng
9: Ngày 22, khánh thành cầu Trà Khúc xây dựng bằng bêtông cốt thép.
Năm
1966
- Tháng
8: Ngày 20, lữ đoàn “Rồng Xanh” (quân Nam Triều Tiên) được Mỹ đưa vào Quảng
Ngãi.
- Tháng
12: Ngày 5-6, lữ đoàn “Rồng Xanh” gây ra vụ thảm sát Bình Hòa.
Năm
1967
-
Tháng 2: Ngày 15, chiến thắng đồi Quang Thạnh (xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh)
diệt một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên.
- Tháng
8:
+
Ngày 3, chiến thắng Cổ Lũy, tiêu diệt cứ điểm Hải Thuyền tại Cổ Luỹ (huyện Tư
Nghĩa).
+
Từ ngày 6 đến ngày 26, chiến thắng Sông Rhe.
+
Ngày 30, lực lượng đặc công Quân khu V và trinh sát vũ trang An ninh tỉnh và
các đội công tác của thị đột kích vào Trung tâm cải huấn, lao xá, trại giam Gò
Lăng, giải thoát gần 1.500 cán bộ, bộ đội cách mạng, đưa về căn cứ an toàn.
Năm
1968
- Tháng
1: Ngày 31, 2 giờ 30 phút mở màn cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở
Quảng Ngãi.
- Tháng
3: Ngày 16, quân Mỹ gây ra vụ thảm sát Sơn Mỹ (thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn
Tịnh) sát hại 504 thường dân, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em.
- Tháng
10: Đại hội lần thứ III Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ.
- Tháng
12: Ngày 20, thành lập Uỷ ban nhân dân Cách mạng tỉnh Quảng Ngãi.
Năm
1969
- Tháng
5: ngày 13, chiến thắng Ba Làng An, đánh bại cuộc hành quân “Liên kết 9”
- Tháng
9:
§
Ngày 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.
§
Ngày 9, đồng bào Cor huyện Trà Bồng tự nguyện mang họ Bác Hồ.
Năm
1970
- Tháng
10: Ngày 7-8, tiến công cụm cứ điểm Trà Bồng. Mở đầu giai đoạn đánh tiêu diệt
chi khu quân sư, cụm cứ điểm lớn và quận lỵ.
- Tháng
11: Đại hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ.
Năm
1971
- Tháng
11: Quân Mỹ rút hết khỏi Quảng Ngãi.
Năm
1972
- Tháng
10: Ngày 30, giải phóng Ba Tơ
Năm
1973
- Tháng
1: Ngày 27, ký kết hiệp định Pari (Paris) về Việt Nam.
- Tháng
8: Đại hội lần thứ V Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, trong kháng chiến chống Mỹ.
Năm
1974
- Tháng
8: Ngày 17, giải phóng huyện Minh Long.
Năm
1975
- Tháng
3:
+
Ngày 17, giải phóng huyện Sơn Hà.
+
Ngày 18, giải phóng huyện Trà Bồng (nay là huyện Trà Bồng và Tây Trà).
+
Ngày 24, 12 giờ, chuẩn tướng quân đội Sài Gòn Trần Văn Nhật (tư lệnh Sư đoàn 2)
và bọn đầu sỏ chính quyền, quân đội Sài Gòn chạy trốn khỏi Quảng Ngãi. 20 giờ,
tàn quân địch tháo chạy về hướng Đà Nẵng. Ta giải phóng tỉnh lỵ Quảng Ngãi và
các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ.
+
Ngày 25, giải phóng các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh.
+
Ngày 31, giải phóng đảo Lý Sơn (nay là huyện Lý Sơn)
+
Mít tinh lớn chào mừng tỉnh Quảng Ngãi giải phóng, Uỷ ban nhân dân quân chính
thị xã Quảng Ngãi ra mắt trước hạng vạn đồng bào.
- Tháng
4: Hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng từ tỉnh đến xã, thôn.
- Tháng
6: Khởi công xây dựng Khu chứng tích tội ác của giặc Mỹ tại Sơn Tịnh (xã Tịnh
Khê, huyện Sơn Tịnh).
- Tháng
9: Ngày 20, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 245/NQ-TW về việc
bãi bỏ cấp khu, hợp nhất các tỉnh, theo đó tỉnh Nghĩa Bình được hình thành trên
cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
- Tháng
12: Quốc hội khoá V thông qua Nghị quyết thành lập các tỉnh hợp nhất, trong đó
có tỉnh Nghĩa Bình (gồm 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định).
Năm
1976
- Tháng
1: Báo Nghĩa Bình ra số đầu tiên.
-
Tháng 11: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ I – vòng 1.
Năm
1977
- Tháng
3: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ I – vòng 2.
Năm
1978
- Tháng
3: Ngày 21, thành lập Trường Cao đẳng Cư phạm Nghĩa Bình (sau là Trường Cao
đẳng sư phạm Quảng Ngãi) và nay là một cơ sở của Trường Đại học Phạm Văn Đồng .
Năm
1980
- Tháng
11: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ 2.
- Xây
dựng Nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Nghiêm – Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi, tại xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ.
Năm
1981
- Trùng
tu Nhà lưu niệm Phạm Văn Đồng tại thôn Thi Phổ Nhất, xã Đức Tân, huyện Mộ Đức.
Năm
1982
- Tháng
11: Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ III – vòng 1.
Năm
1983
- Đại
hội Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình lần thứ III – vòng 2.
- Thành
lập trạm phát sóng truyền hình (thuộc Đài Truyền hình Nghĩa Bình) tại thị xã
Quảng Ngãi.
Năm
1984
- Xây
dựng Bảo tàng khởi nghĩa Ba Tơ tại thị trấn Ba Tơ.
Năm
1985
- Xây
dựng Nhà văn hoá Lao động tỉnh tại thị xã Quảng Ngãi.
-
Tháng 6: Ngày 1, khởi công xây dựng hệ thống thuỷ lợi Thạch Nham.
Năm
1989
- Tháng
7:
+
Ngày 1, tỉnh Nghĩa Bình chính thức tách thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định
như cũ.
+
Ngày 8, Báo Quảng Ngãi (cơ quan của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi) ra số đầu
tiên.
Năm
1991
- Tháng
4: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIV- vòng 1.
- Tháng
10: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIV- vòng 2.
Năm
1993
-
Tháng 1: Ngày 1, thành lập huyện đảo Lý Sơn.
Năm
1994
- Thành
lập huyện Sơn Tây.
Năm
1996
- Tháng
10: Hoàn thành, tổng nghiệm thu, bàn giao công trình thuỷ lợi Thạch Nham.
- Tháng
12: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XV.
Năm
1997
- Tháng
10: Ngày 7, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 830/QĐ-TTg thành lập Ban quản
lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi.
Năm
1998
- Tháng
1: Ngày 8, động thổ khởi công xây dựng Nhà máy lọc dầu số Dung Quất.
Năm
2001
- Tháng
3: Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVI.
Năm
2003
- Tháng
11: Hợp long cầu Trà Khúc II.
Năm
2005
- Tháng
3: Ngày 11, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 50/QĐ-TTg thành lập và
ban hành quy chế hoạt động Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng
6: Ngày 18, công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Khu kinh tế
Dung Quất.
- Tháng
8: Ngày 26, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/2005/NĐ-CP thành lập thành phố
Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng
10: Ngày 8, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức công bố Nghị định của Chính phủ về việc
thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
-
Tháng 12:
+
Ngày 9, khởi công Dự án hồ Nước Trong.
+
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
SÔNG NGÒI
Trên
bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04 con sông lớn là Trà Bồng, Trà
Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Các con sông này có đặc trưng chung là
đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân bố khá đều trên vùng
đồng bằng Quảng Ngãi
Sông Trà Bồng
Nằm
ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Trà Bồng, chảy
qua huyện Bình Sơn ra biển tại của Sa Cần. Sông dài khoảng 45km, hướng
chảy cơ bản từ Tây sang Đông, đoạn cửa sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc.
Phần lớn sông chảy qua vùng địa hình rừng núi có độ cao 200- 1.300m,
phần còn lại chảy trong vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía
thượng nguồn của sông Trà Bồng có nhiều phụ lưu gồm nhiều sông suối,
đáng kể như suối Nun, suối Cà Đú, sông Trà Bói ở các xã Trà Thủy, Trà
Giang. Về tới hạ lưu Đông huyện Bình Sơn có thế đất khá cao, nên sông
Trà Bồng không còn chảy xiết như đoạn trên. Nước chảy lờ đờ, như vậy mà
khác với sông Vệ và sông Trà Khúc, xưa kia người ta không thể đặt xe
nước trên sông Trà Bồng. Đoạn gần cửa sông có những vùng có độ cao 10-
40m. Sông Trà Bồng có 5 nhánh cấp I. Ở vùng hạ lưu còn có các nhánh sông
suối nhỏ chảy ngược, hợp nước vào sông chính trước khi đổ ra biển.
Nhánh suối sâu
(xã Bình Minh, huyện Bình Sơn) bắt nguồn từ núi Đá Miếu (xã Bình An,
huyện Bình Sơn) theo hướng Bắc- Nam, gặp sông chính tại An Phong (xã
Bình Mỹ, huyện Bình Sơn), dài 19km.
Nhánh sông Bí
chảy từ Đông Phước (xã Bình Thanh, huyện Bình Sơn) theo hướng Nam- Bắc,
gặp sông chính ở Thượng Hà (xã Bình Thới, huyện Bình Sơn) tiếp giáp với
hạ lưu và cửa sông dài 12km.
Lưu vực sông Trà Bồng bao gồm hầu hết huyện Trà Bồng và huyện Bình Sơn. Diện tích lưu vực khoảng 697km2.
Sông Trà Khúc
Nằm
ở giữa tỉnh, sông Trà Khúc là sông lớn có lượng nước dồi dào nhất so
với các sông khác trong toàn tỉnh. Ở thượng nguồn sông có 03 nguồn
chính:
Nguồn thứ nhất từ vùng Giá Vụt phía Tây huyện Ba Tơ, chảy theo hướng Nam- Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà gọi là sông Rhe.
Nguồn thứ hai
bắt nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn Tây, với các suối lớn, nhỏ
hợp nước với nhau chảy theo hướng Tây- Đông xuống Sơn Hà, gọi là sông
Rinh (Đắk Rinh). Một nguồn nước rất quan trọng của sông Rinh là sông
Tang. Sông Tang bắt nguồn từ huyện Tây Trà, chảy theo hướng Tây Bắc-
Đông Nam, hợp nước với sông Rinh ở đoạn làng Lô, làng Mùng xã Sơn Bao
phía Tây Bắc huyện Sơn Hà. Trên sông Tang đang xây dựng một hồ chứa nước
lớn là hồ Nước Trong.
Nguồn thứ ba bắt nguồn từ Tây Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện Sơn Tây, chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, gọi là sông Xà Lò (Đắk Sêlô).
Ba
sông chính từ các hướng khác nhau cùng hợp nước ở các xã Sơn Trung, Sơn
Hải, phía Đông Nam huyện lỵ Sơn Hà và đoạn sông này người ta thường gọi
là sông Hải Giá. Từ Hải Giá sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc đến
Thạch Nham (giáp với 03 huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa) thì thoát khỏi
núi non, một đoạn nữa đến thôn Hưng Nhượng xã Tịnh Đông về sau thì
hướng chảy cơ bản là Tây- Đông, tuy nhiên vẫn có nhiều đoạn sông quanh
gấp khúc (do vậy được gọi là sông Trà Khúc). Ở Thạch Nham, người ta đã
xây dựng đập chắn ngang sông, để nước dâng lên, theo hai kênh Chính Bắc-
Chính Nam chảy tưới cho các đồng
bằng Quảng Ngãi. Công trình đại thủy nông Thạch Nham là một công trình
thủy lợi kỳ vĩ. Xưa kia trên sông Trà Khúc từ Đồng Nhơn (xã Tịnh Đông,
huyện Sơn Tịnh) đến cuối nguồn người ta đặt rất nhiều guồng xe nước lớn
để tưới cho đồng ruộng. Sông Trà Khúc ở các hợp lưu thượng nguồn sông
đào lòng nước dữ dội qua các thung lũng, đến hạ lưu nước vẫn chảy rất
xiết cho đến khi đổ nước ra cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc có độ dài
khoảng 135km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và
rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.
Bởi
hợp lưu từ nhiều hướng khác nhau, nên sông có dạng hình cành cây, có 09
phụ lưu cấp I, 05 phụ lưu cấp II, 06 phụ lưu cấp III và 02 phụ lưu cấp
IV.
Sông Trà Khúc có diện tích lưu vực khoảng 3.240km2,
bao gồm phần đất của các huyện Sơn Hà, Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ,
Minh Long, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có một phần nguồn nhỏ thuộc
địa phận tỉnh Kon Tum.
Trên
bề mặt lưu vực sông có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già,
còn lại là rừng thưa kiểu cao nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu là đất
canh tác và đồng bằng trồng lúa chiếm diện tích khá lớn.
Sông Vệ
Bắt
nguồn từ rừng núi phía Tây của huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây
Nam- Đông Bắc, giữa các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển
Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức Lợi. Sông dài khoảng 90km, trong đó 2/3
chiều dài chảy trong vùng núi có độ cao 100- 1.000m. Sông có 05 phụ lưu
cấp I, 02 phụ lưu cấp II. Các phụ lưu không lớn, đáng kể là:
Sông Liên bắt nguồn từ vùng núi Tây Nam huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, hợp nước với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ.
Sông Tà Nô hay sông Tô
chảy từ đồng Bia xã Ba Tô có độ cao trên 200m, theo hướng Tây- Đông,
hợp với sông chính cách huyện lỵ Ba Tơ 18km về phía hạ lưu.
Sông Mễ chảy
từ vùng núi Mum, phần tiếp giáp giữa hai huyện Ba Tơ và Minh Long theo
hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp lưu tại khoảng làng Teng xã Ba Thành, dài
khoảng 09km. Dòng chính cơ bản chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, dọc
huyện Nghĩa Hành đến hết xã Hành Thiện thì sông thoát khỏi núi, chảy
trên vùng đồng bằng. Tại điểm này có trạm bơm Nam sông Vệ. Đến qua đường
sắt, sông chảy giữa hai huyện Tư Nghĩa- Mộ Đức. Trên sông Vệ xưa kia
cũng có rất nhiều guồng xe nước. Cuối nguồn, sông Vệ đổ ra cửa Lở và cửa
Đại Cổ Lũy.
Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa.
Sông Thoa bắt đầu từ thôn Mỹ Hưng (xã Hành Thịnh, huyện Nghĩa Hành) và
thôn Phú An (xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức) theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến
Sa Bình (xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ) thì nhập với sông Trà Câu rồi đổ
ra biển qua cửa Mỹ Á.
Ngoài
ra, còn có các nhánh sông khác như sông Cây Bứa dài 15km, sông Phú Thọ
dà 16km, hợp lưu với sông chính gần vùng cửa sông tạo thành hình nan
quạt. Sông Phú Thọ thực chất là đoạn sông Vệ ở cuối nguồn. Nguồn của
chúng chủ yếu là nước mưa của vùng tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng.
Sông Vệ có diện tích lưu vực 1.260km2,
bao gồm địa hạt các huyện Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành và một
phần nhỏ diện tích của huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu vực khoảng
170m, mật độ lưới sông 0,79km/km2.
Thực
vật che phủ bề mặt lưu vực vùng thượng lưu phần lớn là rừng già, bụi
rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là vùng đất canh tác nông nghiệp.
Sông Trà Câu
Bắt
nguồn từ vùng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ), với độ cao 400m. Dòng sông
chính chủ yếu chảy theo hướng Tây- Đông, đoạn trên thường gọi là sông
Vực Liêm. Ở cuối nguồn, sông Trà Câu nhập lưu với sông Thoa tại Sa Bình,
xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, rồi đổ ra cửa Mỹ Á cách đó khoảng 2,5km.
Sông
Trà Câu có diện tích lưu vực 442km2, chiều dài sông khoảng 32km; chiều
dài lưu vực 19km và chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây là con sông
nhỏ nhất trong các sông kể trên, nước thường cạn kiệt về mùa khô.
Lưu
vực sông Trà Câu bao gồm một phần phía Đông và phía Đông Nam huyện Ba
Tơ, các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Nhơn huyện Đức Phổ. Lớp phủ thực
vật chủ yếu là rừng thưa và đồi trọc.
Ngoài
04 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà
bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân
(Đức Phổ),…
Sông
ngòi Quảng Ngãi đều xuất phát từ Đông Trường Sơn và chảy ra biển Đông.
Dòng sông ngắn, độ dốc cao (từ 10,5 độ đến 33 độ), lòng sông cạn và hẹp
nên vào mùa mưa (có lượng mưa rất nhiều) dòng chảy cường độ mạnh, thường
gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại cho sản xuất và đời sống, mặt khác cũng
mang về cho đồng bằng một lượng phù sa đáng kể. Với mạng lưới sông suối
dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và
Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao có độ dốc lớn với lượng nước
nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá trị. Ở các huyện miền núi nhân
dân đã đắp đập để làm thuỷ điện.
Đặc trưng thủy văn các sông chính tỉnh Quảng Ngãi
Sông
|
Chiều dài sông (km)
|
Chiều dài
lưu vực (km)
|
Chiều rộng
lưu vực (km)
|
Diện tích
lưu vực (km2)
|
Trà Bồng
|
45
|
56
|
12,4
|
697
|
Trà Khúc
|
135
|
123
|
26,3
|
3.240
|
Sông Vệ
|
90
|
70
|
18,0
|
1.260
|
Trà Câu
|
32
|
19
|
14,0
|
442
|
ĐẦM
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 03 đầm nước tự nhiên là Nước Mặn, An Khê, Lâm Bình.
Đầm Nước Mặn
Thuộc
địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng 150ha.
Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thông ra biển tại cửa Sa Huỳnh. Là
đầm nước luôn có độ mặn khá cao cả về mùa khô và mùa mưa, vì vậy có tên
là đầm Nước Mặn. Với đầm này chỉ có thể nuôi trồng thủy sản nước mặn và
làm muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một phần diện tích
của đầm để làm muối.
Đầm An Khê
Thuộc
địa phận xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học điều tra
nhiễm mặn vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng Thủy văn Trung
Trung bộ thực hiện năm 1998 cho thấy vào mùa mưa nước trong đầm có độ
mặn không đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ, độ mặn từ 0,3-
10‰.
Đầm Lâm Bình
Thuộc
địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp, thường dao động
từ 0,2- 0,3‰; về mùa khô, những tháng nắng hạn nhất đầm bị cạn nước hoàn
toàn.
Theo
tài liệu quy hoạch tổng thể nuôi trồng thủy sản năm 2002, đầm An Khê và
đầm Lâm Bình có tổng diện tích 300ha, có thể sử dụng cho nuôi trồng
thủy sản nước ngọt, nước mặn và cải thiện môi trường trên địa bàn.
HỒ
Ở
Quảng Ngãi hầu như không có hồ nước tự nhiên nào đáng kể, chỉ có những
hồ nước được đào đắp phục vụ cho thủy điện, thủy lợi như:
Hồ An Phong
Được xây dựng từ năm 1984 tại xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn năng lực thiết kế tưới cho 320ha, năng lực tưới thực tế là 120ha.
Hồ Tôn Dung
Được xây dựng năm 1978 trên nhánh suối nhỏ thượng lưu sông Liên, thuộc địa phận thị trấn Ba Tơ. Hồ có diện tích lưu vực 20km2,
với diện tích tưới thiết kế là 150ha. Những năm trước, do kênh mương
chưa hoàn chỉnh nên chỉ tưới được khoảng 30ha; năm 2001- 2002, đã xây
dựng hoàn chỉnh tuyến kênh, mương, đảm bảo nước tưới đủ diện tích thiết
kế.
Hồ Suối Chí
Được xây dựng trên suối Chí, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành vào năm 2002. Năng lực tưới theo thiết kế là 250ha.
Hồ chứa nước Sở Hầu
Xây dựng năm 1976 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ. Năng lực tưới theo thiết kế là 400ha.
Hồ chứa nước Núi Ngang
Xây dựng vào năm 2000 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ, có năng lực tưới theo thiết kế là 1.450ha
Hồ chứa nước Liệt Sơn
Xây dựng năm 1977 trên sông Lò Bó, xã Phổ Hoà, huyện Đức Phổ tại vị trí có diện tích lưu vực 36,8km2. Năng lực tưới thiết kế là 2.500ha, thực tế tưới được 1.850ha, bằng 74% năng lực thiết kế.
ĐẬP
Các công trình đập được xây dựng ở Quảng Ngãi chủ yếu phục vụ cho việc tưới tiêu nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Đập Đá Giăng
Được xây dựng năm 1977 tại xã Bình Minh, huyện Bình Sơn, năng lực tưới theo thiết kế 420ha, năng lực tưới thực tế là 40ha.
Đập Xã Điệu
Được xây dựng từ năm 1977 trên suối Xã Điệu, xã Sơn Hạ, huyện Sơn Hà, có diện tích lưu vực 17km2,
năng lực tưới theo thiết kế là 350ha, thực tế tưới được 75ha do cụm đầu
mối xuống cấp và kênh nội đồng bị hư hỏng nhưng chưa được tu sửa.
Đập Cù Và
Được xây dựng từ năm 1980 trên sông Giang tại vị trí có diện tích lưu vực 84km2,
có năng lực tưới theo thiết kế là 300ha cho các xã Tịnh Đông, Tịnh
Giang và Tịnh Hiệp (huyện Sơn Tịnh), công trình đang hoạt động tốt.
Đập Xã Trạch
Được
xây dựng vào năm 1980 trên suối Xã Trạch, xã Sơn Thành, huyện Sơn Hà,
năng lực tưới thiết kế là 150ha, nhưng thực tế chỉ tưới được 40ha do hệ
thống kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh.
Đập thuỷ lợi Thạch Nham
Đây
là đập dâng thuộc loại lớn nhất trong cả nước, công trình này đã được
người Pháp khảo sát từ thời Pháp thuộc. Công trình được khởi công xây
dựng vào năm 1985 tại xã Sơn Nham, huyện Sơn Hà, tại vị trí có diện tích
lưu vực 2.850km2 trên sông Trà Khúc.
Công
trình được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn của Nhà nước và đóng góp của
nhân dân trong tỉnh bằng ngày công nghĩa vụ công ích. Năm 1992, công
trình hoàn thành giai đoạn 1 và được đưa vào khai thác; đến năm 1997,
công trình cơ bản hoàn thành. Hệ thống công trình gồm có: đập tràn đầu
mối với chiều dài 200m, hai cửa cống lớn lấy nước qua hai hệ thống kênh
chính Bắc và Nam có tổng chiều dài 87,6km; 566 tuyến kênh, gồm 28 tuyến
kênh cấp I với tổng chiều dài 208,4km, 85 tuyến kênh cấp II và III (có
Ft > 150ha) với tổng chiều dài 208,8km và 453 tuyến kênh nội đồng (có
Ft < 150ha) với tổng chiều dài 453km. Ngoài ra, còn có 15 trạm bơm
điện với tổng công suất từ 980- 1.200m3/h/1 máy, lấy nước từ các tuyến
kênh cấp I, II để bơm tưới cho 4.500ha đất canh tác. Công trình thủy lợi
Thạch Nham có tổng năng lực tưới theo thiết kế là 50.000ha đất canh
tác, trong đó tưới cho cây lúa là 31.000ha và cho cây trồng cạn
19.000ha. Công trình tưới cho các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa,
Nghĩa Hành, Mộ Đức, thành phố Quảng Ngãi và một phần huyện Đức Phổ. Đến
cuối năm 2005, diện tích canh tác được tưới thực tế khoảng 32.500ha,
trong đó tưới cho cây lúa là 25.000ha và cây trồng cạn 7.500ha.
Từ
khi có nguồn nước tưới từ công trình thủy lợi Thạch Nham, sản xuất nông
nghiệp ở khu vực đồng bằng Quảng Ngãi đã có sự thay đổi rõ rệt, cuộc
sống của người nông dân trở nên khá giả hơn rất nhiều. Có thể nói, công
trình thủy lợi Thạch Nham đã đem lại cuộc sống ấm no cho người dân của
vùng đồng bằng Quảng Ngãi.
Tuy
vậy, ở một số vùng do địa hình cao, phức tạp, kênh bị bồi lấp nên nguồn
nước Thạch Nham vẫn không tới được. Điển hình như các xã phía Đông của
huyện Bình Sơn (gồm các xã Bình Đông, Bình Thạnh, Bình Thuận, Bình Hoà,
Bình Hải), gặp những năm nắng hạn, đồng ruộng phải bỏ hoang vì thiếu
nước. Mặt khác, do nguồn vốn đầu tư xây dựng các tuyến kênh nội đồng bị
hạn hẹp, chủ yếu được làm bằng đất nên thường bị sạt, lở khi có lũ, lụt
lớn.
Đập nước Lang và đập Làng
Đập
nước Lang được xây dựng năm 1993 thuộc xã Ba Dinh, huyện Ba Tơ và đập
Làng ở xã Hành Tín Tây (huyện Nghĩa Hành)xây dựng năm 1977. Hai đập này
lần lượt có diện tích tưới thiết kế là 110ha và 80ha, song thực tế chỉ
tưới được 50ha và 45ha do khi khảo sát và thiết kế ban đầu chưa đúng,
đưa diện tích khu tưới lớn so với thực tế. Mặt khác, đập Làng có diện
tích lưu vực quá nhỏ, chỉ khoảng 4km2 nên nguồn nước đến hạn chế.
Đập Suối Lớn
Được
xây dựng trên nhánh suối Lớn thuộc xã Long Hiệp, huyện Minh Long, hệ
thống được đưa vào sử dụng năm 1979. Đập có diện tích lưu vực trên 30km2,
với diện tích tưới thiết kế 160ha, chiều dài kênh chính 5km. Hiện tại
kênh mương đã hư hỏng nhiều nên đập chỉ tưới được 50ha, ngoài ra, một số
đoạn kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh. Cần sửa chữa, nâng cấp kiên cố hoá
kênh mương thì công trình mới đảm bảo diện tích tưới theo thiết kế.
Đập Đồng Thét
Được
xây dựng vào năm 1962 trên sông Phước Giang, thuộc xã Hành Nhân (huyện
Nghĩa Hành), được sửa chữa lại vào năm 1975. Hiện nay, công trình đầu
mối và hệ thống kênh mương đã xuống cấp nặng. Diện tích tưới thiết kế
của công trình là 250ha, thực tế chỉ mới tưới được 80ha. Nguồn nước đến
đập đầy đủ nhưng cần phải sửa chữa, nâng cấp lại công trình đầu mối và
hệ thống kênh để công trình đảm bảo diện tích tưới thiết kế.
Đập dâng Đá Giăng
Xây
dựng từ năm 1980 trên sống Trà Câu, xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ tại vị
trí có diện tích lưu vực 74,5km2, có năng lực tưới theo thiết kế 700ha,
nhưng thực tế chỉ tưới được 400ha do công trình bị xuống cấp và nguồn
nước thiếu. Hiện nay, công trình này được bổng sung nước từ hồ chứa Núi
Ngang.
QUẢNG NGÃI
- quê hương của nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng - là một
mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, lao động cần
cù, sáng tạo. Tiếp xúc với tiến trình phát triển của đất Quảng Ngãi theo
suốt chiều dài lịch sử, người ta không khỏi ngạc nhiên bởi những đóng
góp của mảnh đất này vào sự phát triển kinh tế xã hội - văn hóa của cộng
đồng các dân tộc Việt
Nam.
Nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật về thời kỳ đồ đá, chứng tỏ mảnh đất này từng có con người sinh tụ và đã có sự hiện diện của một nền văn minh từ thời thượng cổ. Quảng Ngãi là nơi phát hiện đầu tiên, cũng là cái nôi của nền văn minh - văn hóa Sa Huỳnh, có niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm, với những di chỉ hết sức phong phú ở Sa Huỳnh, Thạnh Đức, Kế tiếp Văn hóa Sa Huỳnh là Văn hóa Chămpa với kiến trúc thành Châu Sa, tháp Chánh Lộ quy mô, bề thế, mang một phong cách riêng, cùng nhiều di chỉ, di tích khác có niên đại cách đây hàng ngàn năm.
Kế sau Chămpa, văn hóa Việt trở thành dòng chủ đạo của nền văn hóa đa dân tộc, tiếp tục phát triển từ thế kỷ XV trở về sau. Trong sự giao thoa, chuyển tiếp với Văn hóa Chămpa, sự giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em bản địa miền núi là các pha trộn với người Hoa và một số dân tộc khác, đã nhào nặn nơi đất này một sắc thái văn hóa khá độc đáo, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, lam sơn chướng khí bị đẩy lùi, hình thành nên làng mạc, ruộng đồng, kênh mương, nhà cửa, cây đa, bến nước, đình làng, thành quách, phố xá, nơi lưu dấu biết bao mồ hôi, xương máu, nước mắt và nụ cười của lớp lớp thế hệ chủ nhân đất Quảng Ngãi.
Các dân tộc ở Quảng Ngãi là người dân Việt Nam, mang đặc tính chung của người Việt Nam và với sự nỗ lực của mình, người Quảng Ngãi đã góp phần tô đậm những nét đẹp quý báu của người Việt Nam. Qua thử thách trong môi trường tự nhiên và xã hội khắc nghiệt, người Quảng Ngãi đã rèn đúc cho mình thêm sự cứng cỏi, dẻo dai, không chỉ có sức chịu đựng mà còn đủ ý chí, nghị lực, sức sáng tạo để cải biến tự nhiên, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật về thời kỳ đồ đá, chứng tỏ mảnh đất này từng có con người sinh tụ và đã có sự hiện diện của một nền văn minh từ thời thượng cổ. Quảng Ngãi là nơi phát hiện đầu tiên, cũng là cái nôi của nền văn minh - văn hóa Sa Huỳnh, có niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm, với những di chỉ hết sức phong phú ở Sa Huỳnh, Thạnh Đức, Kế tiếp Văn hóa Sa Huỳnh là Văn hóa Chămpa với kiến trúc thành Châu Sa, tháp Chánh Lộ quy mô, bề thế, mang một phong cách riêng, cùng nhiều di chỉ, di tích khác có niên đại cách đây hàng ngàn năm.
Kế sau Chămpa, văn hóa Việt trở thành dòng chủ đạo của nền văn hóa đa dân tộc, tiếp tục phát triển từ thế kỷ XV trở về sau. Trong sự giao thoa, chuyển tiếp với Văn hóa Chămpa, sự giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em bản địa miền núi là các pha trộn với người Hoa và một số dân tộc khác, đã nhào nặn nơi đất này một sắc thái văn hóa khá độc đáo, góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, lam sơn chướng khí bị đẩy lùi, hình thành nên làng mạc, ruộng đồng, kênh mương, nhà cửa, cây đa, bến nước, đình làng, thành quách, phố xá, nơi lưu dấu biết bao mồ hôi, xương máu, nước mắt và nụ cười của lớp lớp thế hệ chủ nhân đất Quảng Ngãi.
Các dân tộc ở Quảng Ngãi là người dân Việt Nam, mang đặc tính chung của người Việt Nam và với sự nỗ lực của mình, người Quảng Ngãi đã góp phần tô đậm những nét đẹp quý báu của người Việt Nam. Qua thử thách trong môi trường tự nhiên và xã hội khắc nghiệt, người Quảng Ngãi đã rèn đúc cho mình thêm sự cứng cỏi, dẻo dai, không chỉ có sức chịu đựng mà còn đủ ý chí, nghị lực, sức sáng tạo để cải biến tự nhiên, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Ngược dòng lịch sử, vào thế kỷ
XVIII, cùng với Bình Định, Quảng Ngãi cũng được xem là cái nôi của phong
trào nông dân Tây Sơn ngay từ khi nó mới khởi phát và sau đó đã có những
đóng góp không nhỏ vào các cuộc chống ngoại xâm của dân tộc, tạo lập nên
các chiến công oanh liệt đánh tan quân Xiêm, đại phá quân Thanh. Quảng
Ngãi là quê hương của Trần Quang Diệu, Trương Đăng Đồ và nhiều vị văn
thần, võ tướng khác của nhà Tây Sơn. Thời Pháp khởi sự xâm lược Việt
Nam, Quảng Ngãi có Hộ đốc Võ Duy Ninh là vị chỉ huy cao cấp đầu tiên của
triều đình Huế tử tiết vì thành Gia Định (1859); tiếp sau có Bình Tây
Đại nguyên soái Trương Định trở thành một thủ lĩnh nghĩa quân Nam Kỳ
chống Pháp. Sau ngày Kinh đô Huế thất thủ (1885), Quảng Ngãi là nơi phất
cờ khởi nghĩa Cần vương chống Pháp đầu tiên ở Nam Trung Kỳ, dưới sự lãnh
đạo của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân và mặc dù bị kẻ địch dìm trong bể
máu, phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi vẫn liên tục tồn tại hàng chục
năm sau. Đầu thế kỷ XX, Quảng Ngãi ghi dấu vào lịch sử Việt Nam bằng
những hoạt động mạnh mẽ, tích cực của Duy tân Hội, với các chí sĩ yêu
nước Lê Đình Cẩn, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết… đặc biệt là phong trào
cự sưu, khất thuế rầm rộ, có tiếng vang trong khắp cả nước thời bấy giờ.
Mặc dù bị kẻ địch đàn áp khốc liệt, nhiều nhà yêu nước và quần chúng bị
địch giết hại, tù đày nhưng phong trào yêu nước ở Quảng Ngãi vẫn được
tiếp nối với Việt Nam Quang phục Hội, xuất hiện hàng loạt chí sĩ, như Lê
Ngung, Nguyễn Thụy, Phạm Cao Chẩm... trong cuộc khởi nghĩa bất thành năm
1916. Các phong trào, hoạt động yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
tuy bị đàn áp đẫm máu, khốc liệt, nhưng lòng yêu nước của người dân
Quảng Ngãi không vì thế mà bị dập tắt, nguội lạnh; ngược lại, nó đã liên
tục bùng lên mạnh mẽ, nhất là sau khi Ðảng Cộng sản Việt Nam rồi Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Tiếng trống vang động ngay từ
năm 1930 đã lan ra toàn tỉnh. Người Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi là đồng chí Nguyễn Nghiêm hy sinh, nhưng cuộc đấu tranh cách
mạng giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển. Nhiều cán bộ Quảng Ngãi
cũng góp sức cho phong trào cách mạng ở các tỉnh bạn, nhất là các tỉnh
Nam Trung Kỳ. Nhiều chiến sĩ cộng sản xuất hiện như những tấm gương sáng
ngời trong đấu tranh cách mạng. Quảng Ngãi là nơi bùng nổ của Khởi nghĩa
và thành lập Đội du kích - tiền thân của lực lượng vũ trang
Liên khu V. Trong Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi là nơi diễn ra cuộc
Tổng khởi nghĩa sớm trong cả nước (14.8.1945) và trở thành cái nôi của
vùng tự do Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi có những sự kiện quan trọng như cuộc Khởi
nghĩa và miền Tây Quảng Ngãi tháng 8.1959, Chiến thắng Ba Gia
31.5.1965, Chiến thắng Vạn Tường 18.8.1965, đánh dấu được những chiến
công huy hoàng; đồng thời, Quảng Ngãi cũng là nơi chịu nhiều đau thương
mất mát, điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ 16.3.1968, làm chấn động dư
luận thế giới và lương tâm loài người.
Trải qua các cuộc chiến tranh
vệ quốc, Quảng Ngãi đã xuất hiện biết bao tấm gương hy sinh vì nước, rèn
đúc được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều vị tướng lĩnh tài ba thao lược, như
Nguyễn Chánh, Trần Văn Trà, Phạm Kiệt, Trần Quý Hai, Trần Nam Trung,
Nguyễn Đôn… và nổi bật là đồng chí Phạm Văn Đồng, người hiến dâng cả
cuộc đời cho cách mạng và để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX.
Quảng Ngãi không chỉ nổi bật ở
truyền thống yêu nước và cách mạng, mảnh đất này còn nổi bật ở truyền
thống lao động sáng tạo, truyền thống văn hóa, tinh thần hiếu học.
Từ nhiều thế kỷ trước, hàng
trăm guồng xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ đã được xây dựng kỳ vĩ
giữa non sông, khiến khách qua đây không khỏi ngạc nhiên, khâm phục và
liên tưởng đến hình ảnh của sự nhẫn nại, đức cần cù và tiềm năng sáng
tạo lớn lao của người dân miền Ấn - Trà. Từ một vùng quê nhiều giông
bão, lũ lụt, hạn hán, bằng bàn tay và khối óc của mình, con người nơi
đây đã cải biến cả vùng đất thiên nhiên khắc nghiệt này thành nơi đất
lành. Sản vật của tự nhiên qua bàn tay con người đã trở thành những món
ăn đậm phong vị quê hương. Từ loài cá bống, cá thài bai nhỏ nhoi trên
sông Trà mà khiến người nơi xa phải nhớ. Từ loài nhuyễn thể vùng nước lợ
mà thành món don đậm hương quê nhà. Quảng Ngãi còn nổi tiếng là xứ sở
mía đường, là nơi sản xuất đường phèn, đường phổi, kẹo gương, mạch nha
và rất nhiều món ăn đặc sản khác. Ở miền núi thì có ốc đá, cá niêng, có
rượu đót, rượu cần. Ở hải đảo thì có hải sâm và nhiều loài hải sản mặn
mà vị biển. Đồng bằng có vị ngọt của mía thì miền núi có vị thơm nồng
của quế vị thơm cay của cau vị ngọt chát của
chè vị ngọt lịm của dứa
Vượt lên những lo toan cơm áo
hằng ngày, người Quảng Ngãi biết tạo dựng nhà rường, nhà lá mái ở miền
xuôi, nhà sàn ở miền núi. Những câu ca dao, điệu hò, điệu lý, hát bả
trạo, sắc bùa, bài chòi ở miền xuôi; những khúc dân ca, dân nhạc miền
núi; những lễ hội… cùng tạo cho cuộc sống người dân đất này thêm phần
đáng yêu và mang nhiều dáng nét riêng. Quảng Ngãi là nơi sinh thành của
một số nhà thơ, của các nghệ sĩ lớn của đất nước. Quảng Ngãi nổi tiếng
là đất học từ xưa với nhiều nhà khoa bảng Nho học, sang thời kỳ Tân học
và nền giáo dục cách mạng càng nổi lên truyền thống hiếu học với nhiều
người học giỏi, nhiều người trở thành những nhà học thuật nổi tiếng
trong nước.
Từ sau khi đất nước hòa bình,
thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ sau khi Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương
đổi mới (1986), mở cửa hội nhập khu vực, quốc tế, Quảng Ngãi đã có những
bước phát triển căn bản về nhiều mặt. Quảng Ngãi đã hoàn thành công
trình đại thủy nông Thạch Nham, tưới cho 50.000ha đất canh tác, tạo nên
một sức bật mới cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Các Khu công nghiệp
Quảng Phú, Tịnh Phong hình thành. Đặc biệt, Khu Kinh tế Dung Quất trong
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được xây dựng, tạo ra một bước đột
phá mới cho kinh tế của tỉnh. Thị xã Quảng Ngãi đã trở thành thành phố
trực thuộc tỉnh. Các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng phát
triển. Lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều chuyển biến đi lên. Đời
sống mọi mặt của người dân Quảng Ngãi ngày càng được nâng cao.
Sự phát triển sinh động, phong phú về nhiều mặt của Quảng Ngãi trong
sự phát triển chung của đất nước là thuận lợi rất lớn nhưng đồng thời tự
thân nó cũng là một thử thách không nhỏ đối với người nghiên cứu. Vấn đề
đầu tiên mà những người thực hiện tự hỏi là mình nghiên cứu như thế là
đã đúng, đầy đủ, tương xứng, phù hợp với hiện thực của Quảng Ngãi trong
quá khứ và hiện tại hay chưa? Đây lại là công trình địa chí Quảng Ngãi
đầu tiên kể từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Hiểu được những khó khăn
ấy, để các nhà nghiên cứu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Hội đồng Biên
soạn công trình đã bàn bạc, đề ra nhiều giải pháp, biện pháp thực hiện
đúng định hướng và có hiệu quả theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Hội đồng đã mời Phó Giáo sư Trần Nghĩa, Giáo sư Phan Ngọc Liên làm cố
vấn chuyên môn và giúp chỉnh biên toàn bộ công trình; đã mời các nhà
nghiên cứu, các cán bộ có chuyên môn vững trong tỉnh và trong nước hình
thành các tổ tham gia nghiên cứu, biên soạn các phần của công trình. Một
khối lượng công việc rất lớn, nhưng quỹ thời gian và điều kiện lại rất
có hạn. Trong hai năm 2004 - 2005, những người thực hiện đã làm việc cật
lực để công trình hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Cho đến
cuối năm 2005, công trình đã cơ bản hoàn thành khối lượng như kế hoạch
đề ra, kịp ra mắt chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ
XVII.
"Địa chí Quảng Ngãi" là một công trình khoa học lớn của tỉnh nhà, với rất nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với loại công trình như thế này, bản thân những người nghiên cứu dù đã hết sức cố gắng vẫn không dám quả quyết rằng mọi thứ đều đã tốt đẹp. Dù đã nghiên cứu nghiêm túc, nhưng cho đến sau khi xuất bản, công trình vẫn rất cần sự chỉnh sửa, bổ khuyết, rất cần sự đóng góp chân thành của độc giả để ngày càng tiến đến hoàn thiện.
Thay mặt Hội đồng Biên soạn công trình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Chỉ đạo công trình, cảm ơn các cơ quan, đơn vị, cá nhân, địa phương đã hết sức giúp đỡ, đặc biệt cảm ơn các nhà nghiên cứu đã không quản gian khó, đem hết tâm lực của mình để công trình đạt kết quả cao nhất.
"Địa chí Quảng Ngãi" là một công trình khoa học lớn của tỉnh nhà, với rất nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với loại công trình như thế này, bản thân những người nghiên cứu dù đã hết sức cố gắng vẫn không dám quả quyết rằng mọi thứ đều đã tốt đẹp. Dù đã nghiên cứu nghiêm túc, nhưng cho đến sau khi xuất bản, công trình vẫn rất cần sự chỉnh sửa, bổ khuyết, rất cần sự đóng góp chân thành của độc giả để ngày càng tiến đến hoàn thiện.
Thay mặt Hội đồng Biên soạn công trình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Chỉ đạo công trình, cảm ơn các cơ quan, đơn vị, cá nhân, địa phương đã hết sức giúp đỡ, đặc biệt cảm ơn các nhà nghiên cứu đã không quản gian khó, đem hết tâm lực của mình để công trình đạt kết quả cao nhất.
TS. NGUYỄN KIM HIỆU
Chủ tịch Hội đồng Biên soạn
SÔNG NGÒI
Trên bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04 con sông lớn là Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Các con sông này có đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân bố khá đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi
Sông Trà Bồng
Nằm
ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Trà Bồng, chảy
qua huyện Bình Sơn ra biển tại của Sa Cần. Sông dài khoảng 45km, hướng
chảy cơ bản từ Tây sang Đông, đoạn cửa sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc.
Phần lớn sông chảy qua vùng địa hình rừng núi có độ cao 200- 1.300m,
phần còn lại chảy trong vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía
thượng nguồn của sông Trà Bồng có nhiều phụ lưu gồm nhiều sông suối,
đáng kể như suối Nun, suối Cà Đú, sông Trà Bói ở các xã Trà Thủy, Trà
Giang. Về tới hạ lưu Đông huyện Bình Sơn có thế đất khá cao, nên sông
Trà Bồng không còn chảy xiết như đoạn trên. Nước chảy lờ đờ, như vậy mà
khác với sông Vệ và sông Trà Khúc, xưa kia người ta không thể đặt xe
nước trên sông Trà Bồng. Đoạn gần cửa sông có những vùng có độ cao 10-
40m. Sông Trà Bồng có 5 nhánh cấp I. Ở vùng hạ lưu còn có các nhánh sông
suối nhỏ chảy ngược, hợp nước vào sông chính trước khi đổ ra biển.
Nhánh suối sâu
(xã Bình Minh, huyện Bình Sơn) bắt nguồn từ núi Đá Miếu (xã Bình An,
huyện Bình Sơn) theo hướng Bắc- Nam, gặp sông chính tại An Phong (xã
Bình Mỹ, huyện Bình Sơn), dài 19km.
Nhánh sông Bí
chảy từ Đông Phước (xã Bình Thanh, huyện Bình Sơn) theo hướng Nam- Bắc,
gặp sông chính ở Thượng Hà (xã Bình Thới, huyện Bình Sơn) tiếp giáp với
hạ lưu và cửa sông dài 12km.
Lưu vực sông Trà Bồng bao gồm hầu hết huyện Trà Bồng và huyện Bình Sơn. Diện tích lưu vực khoảng 697km2.
Sông Trà Khúc
Nằm
ở giữa tỉnh, sông Trà Khúc là sông lớn có lượng nước dồi dào nhất so
với các sông khác trong toàn tỉnh. Ở thượng nguồn sông có 03 nguồn
chính:
Nguồn thứ nhất từ vùng Giá Vụt phía Tây huyện Ba Tơ, chảy theo hướng Nam- Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà gọi là sông Rhe.
Nguồn thứ hai
bắt nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn Tây, với các suối lớn, nhỏ
hợp nước với nhau chảy theo hướng Tây- Đông xuống Sơn Hà, gọi là sông
Rinh (Đắk Rinh). Một nguồn nước rất quan trọng của sông Rinh là sông
Tang. Sông Tang bắt nguồn từ huyện Tây Trà, chảy theo hướng Tây Bắc-
Đông Nam, hợp nước với sông Rinh ở đoạn làng Lô, làng Mùng xã Sơn Bao
phía Tây Bắc huyện Sơn Hà. Trên sông Tang đang xây dựng một hồ chứa nước
lớn là hồ Nước Trong.
Nguồn thứ ba bắt nguồn từ Tây Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện Sơn Tây, chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, gọi là sông Xà Lò (Đắk Sêlô).
Ba
sông chính từ các hướng khác nhau cùng hợp nước ở các xã Sơn Trung, Sơn
Hải, phía Đông Nam huyện lỵ Sơn Hà và đoạn sông này người ta thường gọi
là sông Hải Giá. Từ Hải Giá sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc đến
Thạch Nham (giáp với 03 huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa) thì thoát khỏi
núi non, một đoạn nữa đến thôn Hưng Nhượng xã Tịnh Đông về sau thì
hướng chảy cơ bản là Tây- Đông, tuy nhiên vẫn có nhiều đoạn sông quanh
gấp khúc (do vậy được gọi là sông Trà Khúc). Ở Thạch Nham, người ta đã
xây dựng đập chắn ngang sông, để nước dâng lên, theo hai kênh Chính Bắc-
Chính Nam chảy tưới cho các đồng
bằng Quảng Ngãi. Công trình đại thủy nông Thạch Nham là một công trình
thủy lợi kỳ vĩ. Xưa kia trên sông Trà Khúc từ Đồng Nhơn (xã Tịnh Đông,
huyện Sơn Tịnh) đến cuối nguồn người ta đặt rất nhiều guồng xe nước lớn
để tưới cho đồng ruộng. Sông Trà Khúc ở các hợp lưu thượng nguồn sông
đào lòng nước dữ dội qua các thung lũng, đến hạ lưu nước vẫn chảy rất
xiết cho đến khi đổ nước ra cửa Đại Cổ Lũy. Sông Trà Khúc có độ dài
khoảng 135km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và
rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.
Bởi
hợp lưu từ nhiều hướng khác nhau, nên sông có dạng hình cành cây, có 09
phụ lưu cấp I, 05 phụ lưu cấp II, 06 phụ lưu cấp III và 02 phụ lưu cấp
IV.
Sông Trà Khúc có diện tích lưu vực khoảng 3.240km2,
bao gồm phần đất của các huyện Sơn Hà, Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ,
Minh Long, Sơn Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có một phần nguồn nhỏ thuộc
địa phận tỉnh Kon Tum.
Trên
bề mặt lưu vực sông có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già,
còn lại là rừng thưa kiểu cao nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu là đất
canh tác và đồng bằng trồng lúa chiếm diện tích khá lớn.
Sông Vệ
Bắt
nguồn từ rừng núi phía Tây của huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây
Nam- Đông Bắc, giữa các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển
Đông tại cửa Cổ Lũy và cửa Đức Lợi. Sông dài khoảng 90km, trong đó 2/3
chiều dài chảy trong vùng núi có độ cao 100- 1.000m. Sông có 05 phụ lưu
cấp I, 02 phụ lưu cấp II. Các phụ lưu không lớn, đáng kể là:
Sông Liên bắt nguồn từ vùng núi Tây Nam huyện Ba Tơ. Sông chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, hợp nước với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ.
Sông Tà Nô hay sông Tô
chảy từ đồng Bia xã Ba Tô có độ cao trên 200m, theo hướng Tây- Đông,
hợp với sông chính cách huyện lỵ Ba Tơ 18km về phía hạ lưu.
Sông Mễ chảy
từ vùng núi Mum, phần tiếp giáp giữa hai huyện Ba Tơ và Minh Long theo
hướng Tây Bắc- Đông Nam, hợp lưu tại khoảng làng Teng xã Ba Thành, dài
khoảng 09km. Dòng chính cơ bản chảy theo hướng Tây Nam- Đông Bắc, dọc
huyện Nghĩa Hành đến hết xã Hành Thiện thì sông thoát khỏi núi, chảy
trên vùng đồng bằng. Tại điểm này có trạm bơm Nam sông Vệ. Đến qua đường
sắt, sông chảy giữa hai huyện Tư Nghĩa- Mộ Đức. Trên sông Vệ xưa kia
cũng có rất nhiều guồng xe nước. Cuối nguồn, sông Vệ đổ ra cửa Lở và cửa
Đại Cổ Lũy.
Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa.
Sông Thoa bắt đầu từ thôn Mỹ Hưng (xã Hành Thịnh, huyện Nghĩa Hành) và
thôn Phú An (xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức) theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến
Sa Bình (xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ) thì nhập với sông Trà Câu rồi đổ
ra biển qua cửa Mỹ Á.
Ngoài
ra, còn có các nhánh sông khác như sông Cây Bứa dài 15km, sông Phú Thọ
dà 16km, hợp lưu với sông chính gần vùng cửa sông tạo thành hình nan
quạt. Sông Phú Thọ thực chất là đoạn sông Vệ ở cuối nguồn. Nguồn của
chúng chủ yếu là nước mưa của vùng tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng.
Sông Vệ có diện tích lưu vực 1.260km2,
bao gồm địa hạt các huyện Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành và một
phần nhỏ diện tích của huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu vực khoảng
170m, mật độ lưới sông 0,79km/km2.
Thực
vật che phủ bề mặt lưu vực vùng thượng lưu phần lớn là rừng già, bụi
rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là vùng đất canh tác nông nghiệp.
Sông Trà Câu
Bắt
nguồn từ vùng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ), với độ cao 400m. Dòng sông
chính chủ yếu chảy theo hướng Tây- Đông, đoạn trên thường gọi là sông
Vực Liêm. Ở cuối nguồn, sông Trà Câu nhập lưu với sông Thoa tại Sa Bình,
xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, rồi đổ ra cửa Mỹ Á cách đó khoảng 2,5km.
Sông
Trà Câu có diện tích lưu vực 442km2, chiều dài sông khoảng 32km; chiều
dài lưu vực 19km và chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây là con sông
nhỏ nhất trong các sông kể trên, nước thường cạn kiệt về mùa khô.
Lưu
vực sông Trà Câu bao gồm một phần phía Đông và phía Đông Nam huyện Ba
Tơ, các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Nhơn huyện Đức Phổ. Lớp phủ thực
vật chủ yếu là rừng thưa và đồi trọc.
Ngoài
04 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà
bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân
(Đức Phổ),…
Sông
ngòi Quảng Ngãi đều xuất phát từ Đông Trường Sơn và chảy ra biển Đông.
Dòng sông ngắn, độ dốc cao (từ 10,5 độ đến 33 độ), lòng sông cạn và hẹp
nên vào mùa mưa (có lượng mưa rất nhiều) dòng chảy cường độ mạnh, thường
gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại cho sản xuất và đời sống, mặt khác cũng
mang về cho đồng bằng một lượng phù sa đáng kể. Với mạng lưới sông suối
dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và
Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao có độ dốc lớn với lượng nước
nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá trị. Ở các huyện miền núi nhân
dân đã đắp đập để làm thuỷ điện.
Đặc trưng thủy văn các sông chính tỉnh Quảng Ngãi
Sông
|
Chiều dài sông (km)
|
Chiều dài
lưu vực (km)
|
Chiều rộng
lưu vực (km)
|
Diện tích
lưu vực (km2)
|
Trà Bồng
|
45
|
56
|
12,4
|
697
|
Trà Khúc
|
135
|
123
|
26,3
|
3.240
|
Sông Vệ
|
90
|
70
|
18,0
|
1.260
|
Trà Câu
|
32
|
19
|
14,0
|
442
|
ĐẦM
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 03 đầm nước tự nhiên là Nước Mặn, An Khê, Lâm Bình.
Đầm Nước Mặn
Thuộc
địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng 150ha.
Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thông ra biển tại cửa Sa Huỳnh. Là
đầm nước luôn có độ mặn khá cao cả về mùa khô và mùa mưa, vì vậy có tên
là đầm Nước Mặn. Với đầm này chỉ có thể nuôi trồng thủy sản nước mặn và
làm muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một phần diện tích
của đầm để làm muối.
Đầm An Khê
Thuộc
địa phận xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học điều tra
nhiễm mặn vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng Thủy văn Trung
Trung bộ thực hiện năm 1998 cho thấy vào mùa mưa nước trong đầm có độ
mặn không đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ, độ mặn từ 0,3-
10‰.
Đầm Lâm Bình
Thuộc
địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp, thường dao động
từ 0,2- 0,3‰; về mùa khô, những tháng nắng hạn nhất đầm bị cạn nước hoàn
toàn.
Theo
tài liệu quy hoạch tổng thể nuôi trồng thủy sản năm 2002, đầm An Khê và
đầm Lâm Bình có tổng diện tích 300ha, có thể sử dụng cho nuôi trồng
thủy sản nước ngọt, nước mặn và cải thiện môi trường trên địa bàn.
HỒ
Ở
Quảng Ngãi hầu như không có hồ nước tự nhiên nào đáng kể, chỉ có những
hồ nước được đào đắp phục vụ cho thủy điện, thủy lợi như:
Hồ An Phong
Được xây dựng từ năm 1984 tại xã Bình Mỹ, huyện Bình Sơn năng lực thiết kế tưới cho 320ha, năng lực tưới thực tế là 120ha.
Hồ Tôn Dung
Được xây dựng năm 1978 trên nhánh suối nhỏ thượng lưu sông Liên, thuộc địa phận thị trấn Ba Tơ. Hồ có diện tích lưu vực 20km2,
với diện tích tưới thiết kế là 150ha. Những năm trước, do kênh mương
chưa hoàn chỉnh nên chỉ tưới được khoảng 30ha; năm 2001- 2002, đã xây
dựng hoàn chỉnh tuyến kênh, mương, đảm bảo nước tưới đủ diện tích thiết
kế.
Hồ Suối Chí
Được xây dựng trên suối Chí, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành vào năm 2002. Năng lực tưới theo thiết kế là 250ha.
Hồ chứa nước Sở Hầu
Xây dựng năm 1976 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ. Năng lực tưới theo thiết kế là 400ha.
Hồ chứa nước Núi Ngang
Xây dựng vào năm 2000 tại xã Phổ Nhơn, huyện Đức Phổ, có năng lực tưới theo thiết kế là 1.450ha
Hồ chứa nước Liệt Sơn
Xây dựng năm 1977 trên sông Lò Bó, xã Phổ Hoà, huyện Đức Phổ tại vị trí có diện tích lưu vực 36,8km2. Năng lực tưới thiết kế là 2.500ha, thực tế tưới được 1.850ha, bằng 74% năng lực thiết kế.
ĐẬP
Các công trình đập được xây dựng ở Quảng Ngãi chủ yếu phục vụ cho việc tưới tiêu nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Đập Đá Giăng
Được xây dựng năm 1977 tại xã Bình Minh, huyện Bình Sơn, năng lực tưới theo thiết kế 420ha, năng lực tưới thực tế là 40ha.
Đập Xã Điệu
Được xây dựng từ năm 1977 trên suối Xã Điệu, xã Sơn Hạ, huyện Sơn Hà, có diện tích lưu vực 17km2,
năng lực tưới theo thiết kế là 350ha, thực tế tưới được 75ha do cụm đầu
mối xuống cấp và kênh nội đồng bị hư hỏng nhưng chưa được tu sửa.
Đập Cù Và
Được xây dựng từ năm 1980 trên sông Giang tại vị trí có diện tích lưu vực 84km2,
có năng lực tưới theo thiết kế là 300ha cho các xã Tịnh Đông, Tịnh
Giang và Tịnh Hiệp (huyện Sơn Tịnh), công trình đang hoạt động tốt.
Đập Xã Trạch
Được
xây dựng vào năm 1980 trên suối Xã Trạch, xã Sơn Thành, huyện Sơn Hà,
năng lực tưới thiết kế là 150ha, nhưng thực tế chỉ tưới được 40ha do hệ
thống kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh.
Đập thuỷ lợi Thạch Nham
Đây
là đập dâng thuộc loại lớn nhất trong cả nước, công trình này đã được
người Pháp khảo sát từ thời Pháp thuộc. Công trình được khởi công xây
dựng vào năm 1985 tại xã Sơn Nham, huyện Sơn Hà, tại vị trí có diện tích
lưu vực 2.850km2 trên sông Trà Khúc.
Công
trình được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn của Nhà nước và đóng góp của
nhân dân trong tỉnh bằng ngày công nghĩa vụ công ích. Năm 1992, công
trình hoàn thành giai đoạn 1 và được đưa vào khai thác; đến năm 1997,
công trình cơ bản hoàn thành. Hệ thống công trình gồm có: đập tràn đầu
mối với chiều dài 200m, hai cửa cống lớn lấy nước qua hai hệ thống kênh
chính Bắc và Nam có tổng chiều dài 87,6km; 566 tuyến kênh, gồm 28 tuyến
kênh cấp I với tổng chiều dài 208,4km, 85 tuyến kênh cấp II và III (có
Ft > 150ha) với tổng chiều dài 208,8km và 453 tuyến kênh nội đồng (có
Ft < 150ha) với tổng chiều dài 453km. Ngoài ra, còn có 15 trạm bơm
điện với tổng công suất từ 980- 1.200m3/h/1 máy, lấy nước từ các tuyến
kênh cấp I, II để bơm tưới cho 4.500ha đất canh tác. Công trình thủy lợi
Thạch Nham có tổng năng lực tưới theo thiết kế là 50.000ha đất canh
tác, trong đó tưới cho cây lúa là 31.000ha và cho cây trồng cạn
19.000ha. Công trình tưới cho các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa,
Nghĩa Hành, Mộ Đức, thành phố Quảng Ngãi và một phần huyện Đức Phổ. Đến
cuối năm 2005, diện tích canh tác được tưới thực tế khoảng 32.500ha,
trong đó tưới cho cây lúa là 25.000ha và cây trồng cạn 7.500ha.
Từ
khi có nguồn nước tưới từ công trình thủy lợi Thạch Nham, sản xuất nông
nghiệp ở khu vực đồng bằng Quảng Ngãi đã có sự thay đổi rõ rệt, cuộc
sống của người nông dân trở nên khá giả hơn rất nhiều. Có thể nói, công
trình thủy lợi Thạch Nham đã đem lại cuộc sống ấm no cho người dân của
vùng đồng bằng Quảng Ngãi.
Tuy
vậy, ở một số vùng do địa hình cao, phức tạp, kênh bị bồi lấp nên nguồn
nước Thạch Nham vẫn không tới được. Điển hình như các xã phía Đông của
huyện Bình Sơn (gồm các xã Bình Đông, Bình Thạnh, Bình Thuận, Bình Hoà,
Bình Hải), gặp những năm nắng hạn, đồng ruộng phải bỏ hoang vì thiếu
nước. Mặt khác, do nguồn vốn đầu tư xây dựng các tuyến kênh nội đồng bị
hạn hẹp, chủ yếu được làm bằng đất nên thường bị sạt, lở khi có lũ, lụt
lớn.
Đập nước Lang và đập Làng
Đập
nước Lang được xây dựng năm 1993 thuộc xã Ba Dinh, huyện Ba Tơ và đập
Làng ở xã Hành Tín Tây (huyện Nghĩa Hành)xây dựng năm 1977. Hai đập này
lần lượt có diện tích tưới thiết kế là 110ha và 80ha, song thực tế chỉ
tưới được 50ha và 45ha do khi khảo sát và thiết kế ban đầu chưa đúng,
đưa diện tích khu tưới lớn so với thực tế. Mặt khác, đập Làng có diện
tích lưu vực quá nhỏ, chỉ khoảng 4km2 nên nguồn nước đến hạn chế.
Đập Suối Lớn
Được
xây dựng trên nhánh suối Lớn thuộc xã Long Hiệp, huyện Minh Long, hệ
thống được đưa vào sử dụng năm 1979. Đập có diện tích lưu vực trên 30km2,
với diện tích tưới thiết kế 160ha, chiều dài kênh chính 5km. Hiện tại
kênh mương đã hư hỏng nhiều nên đập chỉ tưới được 50ha, ngoài ra, một số
đoạn kênh nội đồng chưa hoàn chỉnh. Cần sửa chữa, nâng cấp kiên cố hoá
kênh mương thì công trình mới đảm bảo diện tích tưới theo thiết kế.
Đập Đồng Thét
Được
xây dựng vào năm 1962 trên sông Phước Giang, thuộc xã Hành Nhân (huyện
Nghĩa Hành), được sửa chữa lại vào năm 1975. Hiện nay, công trình đầu
mối và hệ thống kênh mương đã xuống cấp nặng. Diện tích tưới thiết kế
của công trình là 250ha, thực tế chỉ mới tưới được 80ha. Nguồn nước đến
đập đầy đủ nhưng cần phải sửa chữa, nâng cấp lại công trình đầu mối và
hệ thống kênh để công trình đảm bảo diện tích tưới thiết kế.
Đập dâng Đá Giăng
Xây
dựng từ năm 1980 trên sống Trà Câu, xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ tại vị
trí có diện tích lưu vực 74,5km2, có năng lực tưới theo thiết kế 700ha,
nhưng thực tế chỉ tưới được 400ha do công trình bị xuống cấp và nguồn
nước thiếu. Hiện nay, công trình này được bổng sung nước từ hồ chứa Núi
Ngang.
NÚI
Quảng Ngãi có rất nhiều núi cao hiểm trở. Các núi có độ cao trên 1.000m chủ yếu phân bổ ở phía Tây, Tây Bắc, Tây Nam và phía Bắc tỉnh.
Các đỉnh núi cao ở Quảng Ngãi
Núi
|
Độ cao (m)
|
Vị Trí
|
Cà Đam
|
1.413
|
Tây Nam huyện Trà Bồng
|
A Zin
|
1.233
|
Tây Nam huyện Sơn Hà
|
Hà Peo
|
1.254
|
Tây Nam xã Sơn Tây (huyện Sơn Tây)
|
Núi Ho
|
1.096
|
Tây Bắc xã Sơn Mùa (huyện Sơn Tây)
|
Bờ Rẫy
|
1.371
|
Bắc xã Sơn Mùa (huyện Sơn Tây)
|
Ca Sút
|
1.262
|
Bắc xã Trà Lãnh (huyện Tây Trà)
|
Làng Rầm
|
1.095
|
Nam xã Ba Lế (huyện Ba Tơ)
|
Núi Mum
|
1.085
|
Tây Nam xã Long Môn (huyện Minh Long)
|
Cao Muôn
|
1.085
|
Tây Nam xã Ba Chùa (huyện Ba Tơ)
|
Tà Cun
|
1.428
|
Tây huyện Trà Bồng
|
Núi Roong
|
1.459
|
Đông Nam huyện Sơn Tây
|
Hà Tu
|
1.137
|
Nam xã Sơn Ba (huyện Sơn Hà)
|
Ngọc Đôn
|
1.064
|
Tây Nam xã Sơn Ba (huyện Sơn Hà)
|
Đá Lét
|
1.130
|
Đông Bắc xã Trà Bùi (huyện Trà Bồng)
|
Ra Lóc
|
1.063
|
Tây Nam xã Trà Hiệp (huyện Trà Bồng)
|
Núi Po
|
1.002
|
Tây Bắc xã Trà Quân (huyện Tây Trà)
|
Núi Y
|
1.017
|
Tây Nam xã Trà Hiệp (huyện Trà Bồng)
|
Các
núi của Quảng Ngãi đa dạng về hình thái, song nhìn chung thường có dạng
tuyến, nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc. Riêng dãy núi Răng cưa gồm nhiều đỉnh
núi liên kết với nhau tạo thành dãy dạng răng cưa. Cấu thành các dãy
núi này là các thành tạo đá xâm nhập và các đá biến chất có thành phần
thạch học và tuổi khác nhau.
Một
số núi ở Quảng Ngãi được xếp và hàng danh lam thắng cảnh được các thi
nhân xưa đặt cho những cái tên giàu hình tượng như: “Long Đầu hí thủy”,
“Thiên Ấn niêm hà”, “Thiên Bút phê vân”, “La Hà thạch trận”, “Thạch Bích
tà dương”, “Vân Phong túc vũ”,… Chúng được cấu trúc bởi các đá biến
chất, magma và đá phun trào bazan, là những địa điểm du lịch sinh thái
có giá trị.
Các núi lớn nổi tiếng nhất gồm: Cà Đam, Thạch Bích, Cao Muôn, Núi Lớn.
Núi Cà Đam
Tên chữ của núi là Vân Phong, Cà Đam là tiếng gọi của người địa phương. Núi nằm ở phía Tây Nam của huyện Trà Bồng và phía Đông Nam
của huyện Tây Trà. Đứng từ vùng đồng bằng nhìn lên phía Tây Bắc của
tỉnh Quảng Ngãi thấy hình núi cao vọt lên giữa lớp lớp núi. Sách Đại Nam
nhất thống chí, quyển 6 chép về tỉnh Quảng Ngãi, có viết: “hình núi cao
vót lên giữa từng trời, có các núi bao quanh bốn phía trùng điệp, đứng
xa trông thấy tươi sáng. Chóp núi dờn dợn mây bay, suốt ngày khí sắc như
lúc trời mới sáng hay sau khi mưa tạnh”. Núi Cà Đam được xem là một
trong những cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi, được Tuần vũ Nguyễn Cư Trinh
làm thơ vịnh với tựa đề “Vân Phong túc vũ” (Núi Vân Phong mưa đêm”. Vân
Phong hay Cà Đam là căn cứ địa của nghĩa quân dân tộc Cor chống Pháp từ
năm 1938 đến năm 1945. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Cà Đam được
chọn làm căn cứ địa của tỉnh, là trung tâm đầu não của cuộc khởi nghĩa
Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (tháng 8/1959).
Núi Thạch Bích
Nằm ở phía Đông Nam
huyện Sơn Hà giáp với huyện Minh Long, nhìn từ vùng đồng bằng trung tâm
tỉnh Quảng Ngãi lên phía Tây, núi sừng sững đứng giữa trời. Chữ Hán gọi
là Thạch Bích, tên Nôm gọi là Đá Vách. Sách Đại Nam
nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, quyển chép về tỉnh Quảng
Ngãi viết: “Thế núi chót vót, vách đá rất hiểm trở, cỏ mọc rậm rạp, chưa
từng có tiều phu đến chặt củi. Buổi sớm khói mây ngưng sắc tía, suối
hang ngậm màu son. Lúc mặt trời chiếu xuống, núi đá đều sáng láng như
ánh sao đêm”. Trong 10 bài vịnh của thi sĩ Nguyễn Cư Trinh, khi còn làm
Tuần vũ Quảng Ngãi (1750), có một bài thơ đề là “Thạch Bích tà dương”
(Bóng chiều núi Thạch Bích). Thạch Bích là căn cứ chống phong kiến và
thực dân của thủ lĩnh nghĩa quân Hrê trong lịch sử, đồng thời là một
cảnh đẹp của Quảng Ngãi.
Núi Cao Muôn
Tên
chữ Hán là Cao Môn, đọc trại thành Cao Muôn, núi cao ở vùng Ba Tơ. Sách
Đại Nam nhất thống chí chép: “Thế núi cao vót lên trời, làm trấn sơn
cho các núi. Đá núi rải nằm, óng ánh năm sắc, hoặc giống hình người,
hình thú; hoặc giống hình cá, hình rồng. Núi này có sinh cây tượng đằng
(một loại mây) lớn như cây cau. Ở dưới có khe hố thâm hiểm (…). Có một
đường đi qua trên đỉnh núi có chữ bằng thẳng tương truyền đó là chỗ ông
Tả quân Lê Văn Duyệt khai thác ra, nay vẫn còn”.
Xưa
kia, núi Cao Muôn là căn cứ chống phong kiến, đế quốc của nghĩa quân
dân tộc hrê. Sau tháng 3/1945 là căn cứ của Đội Du kích Ba Tơ.
Núi Lớn
Tên
chữ Hán là Đại Sơn, nằm ở phía Tây huyện Mộ Đức. Sách Đồng Khánh địa dư
chí chép: “Rặng núi uốn lượn, dài 70 dặm, gồm 81 ngọn, 36 con suối.
Ngọn ở giữa rất cao. Núi lớn là ngọn núi nổi tiếng của huyện và là núi
tổ của các ngọn núi từ giữa huyện chạy về phía Bắc. Về phía Đông Bắc,
núi nhô lên thành hai ngọn Nê Nguyên và Lỗ Tây, qua hẻm núi rồi lại nhô
lên, thành núi Bắc Dương”. Năm 1924, rừng núi Lớn được đặt thành rừng
cấm. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, núi Lớn được chọn làm một trong hai
chiến khu của Đội Du kích Ba Tơ.Nguồn số liệu trên lấy từ kết qủa Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Quảng Ngãi ngày 01/4/2010 của Cục Thống kê Quảng Ngãi.
Cơ sở hạ tầng
1. Đường
bộ:
Quốc lộ 1A: đoạn chạy qua tỉnh:
98km
Quốc lộ 24A: Nối liền Quốc lội 1A (đoạn qua
Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) với KonTum dài 69km và Quốc lộ
24B dài 18km.
Đường Đông Trường Sơn
đi qua 02 xã Sơn Mùa và Sơn Bua, huyện Sơn Tây với tổng chiều dài 13 km
sẽ hoàn thành trong năm 2008.
Tỉnh lộ: Gồm 18 tuyến với tổng chiều dài
520,5km
Đường ven biển Dung Quất- Sa
Huỳnh
đi qua các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ và thành phố
Quảng Ngãi, với chiều dài khoảng 117 Km. Có điểm đầu tại ranh giữa hai tỉnh
Quảng Nam và Quảng Ngãi thuộc Khu kinh tế Dung Quất và điểm cuối giao với Quốc
lộ 1A tại Km1116 thuộc Sa Huỳnh, huyện Đức Phổ. Đây là tuyến đường góp phần quan
trọng khơi dậy tiềm năng vừa phát triển kinh tế - xã hội dọc vùng ven biển, nâng
cao đời sống người dân, vừa gắn với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an
ninh ở khu vực này.
Đường nội
KKT Dung Quất: có tổng chiều dài trên 60km.
Từ nay
đến năm 2010, tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thành các tuyến đường đang triển
khai đầu tư và các tuyến đường đã quy hoạch. Xây dựng đường Dung Quất nối với
đường Hồ Chí Minh theo hướng Trà My - Trà Bồng - Bình Long - Ngã ba Nhà máy lọc
dầu - cảng Dung Quất. Quy hoạch và xây dựng tuyến đường Trị Bình - cảng Dung
Quất và một số tuyến đường trục chính của đô thị Vạn
Tường.
2. Đường
Sắt:
Tuyến đường sắt Bắc - Nam:
chạy suốt chiều dài tỉnh.
3.
Đường hàng không:
Sân bay Chu
Lai (Tỉnh Quảng
Nam) cách Thành phố Quảng Ngãi 35km, cách Khu kinh tế Dung Quất 04km về hướng
Bắc.
4. Hệ thống cảng biễn:
Cảng biển nước
sâu Dung Quất: với lợi thế kín gió,
cách tuyến hàng hải quốc tế 90km, tuyến nội hải 30km và độ sâu từ 10-19m, cảng
Dung Quất đã được thiết kế với hệ thống cảng đa chức năng gồm:
Khu cảng Dầu
khí với lượng hàng hóa
thông qua là 6,1 triệu tấn dầu sản phẩm/năm và xây dựng 01 bến phao để nhập dầu
thô cho tàu dầu có trọng tải từ 80.000 tấn - 110.000 tấn tại vịnh Việt Thanh;
cảng chuyên dùng
gắn với
Khu công nghiệp liên hợp tàu thủy, khu xây dựng Nhà máy Luyện cán thép và các
Nhà máy Công nghiệp nặng.
Cảng tổng hợp được chia thành 2 phân
khu cảng: phân khu cảng Tổng hợp 1 ở ngay sau Khu cảng Dầu khí, đảm bảo cho các
tàu có trọng tải từ 5.000 tấn - 50.000 tấn ra vào; phân khu cảng Tổng hợp 2 ở
phía Nam vịnh Dung Quất, bên tả sông Đập.
Khu cảng Chuyên
dùng gắn với Khu công
nghiệp liên hợp tàu thủy, khu xây dựng Nhà máy Luyện cán thép và các Nhà máy
Công nghiệp nặng.
Khu cảng Thương
mại phục vụ cho Khu bảo
thuế và 01 cảng trung chuyển container quốc tế nằm tại vị trí giữa Khu cảng
Chuyên dùng và Khu cảng Tổng hợp để đón tàu có trọng tải từ 10 - 15
vạn DWT.
Cảng Dung Quất được
đầu tư xây dựng để bảo đảm khối lượng hàng hóa thông qua khoảng 20 triệu tấn/năm
vào năm 2010 và khoảng 34 triệu tấn/năm vào năm 2020 Hiện nay đang vận hành bến tổng hợp
cho tàu 1,5 vạn DWT.
* Ngoài ra, với
bờ biển dài 144 km, Quảng Ngãi có nhiều cửa biển, cảng biển nhỏ như: Sa Kỳ, Sa
Cần, Bình Châu, Mỹ Á,… có tiềm năng về giao thông đường thủy, thương mại và du
lịch.
DÂN CƯ - DÂN TỘC
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ, DÂN TỘC
Quá
trình hình thành, phát triển và phân bố dân cư, dân tộc trên địa bàn
Quảng Ngãi từng có các lớp dân cư cổ sinh sống: cư dân Sa Huỳnh, cư dân
Chămpa, kế đó là dân cư Việt (Kinh) chiếm vị trí chủ đạo.
Người
Kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu chủ yếu từ thế kỷ XV trở đi, đa số
là những nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh - Nghệ di cư vào
khẩn hoang đất đai, lập thành làng mạc.
Dưới
thời các chúa Nguyễn, có một số người Hoa từ các vùng Quảng Đông, Phúc
Kiến, Triều Châu, Hải Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, các cửa
biển Sa Cần, Sa Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò
tương đối quan trọng trong sự phát triển kinh tế của vùng đất Quảng Ngãi
thời bấy giờ thông qua hoạt động buôn bán thịnh đạt ở Thu Xà. Nhưng
trải qua các cuộc chiến tranh, người Hoa phần đã phiêu tán đi nơi khác,
phần hòa nhập và cộng đồng người Việt, không còn các cộng đồng làng xã
đặc thù.
Dưới
thời Pháp thuộc, cho đến hết năm 1975, có một số người Pháp, Mỹ, Ấn Độ,
Chà Và (Java) đến sống ở Quảng Ngãi, nhưng chủ yếu là chuyển cư tạm
thời, hoặc không thành cộng đồng riêng. Do vậy, ở vùng đồng bằng tỉnh
Quảng Ngãi, ngoài dân tộc Việt là đáng kể nhất, không có cộng đồng nào
khác.
Ở
miền núi, về dân tộc có sự ổn định hơn. Miền núi Quảng Ngãi có các dân
tộc Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống; họ là cư dân bản địa lâu đời, sống theo
từng khu vực và có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu, buôn bán với
nhau và với người Việt ở miền xui lên buôn bán, khai khẩn. Tư sau năm
1975, có một ít người các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc vào, song
chỉ là đơn lẻ và hòa nhập vào các cộng đồng địa phương. Do vậy, nói đến
dân cư, dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi cũng chỉ đề cập chủ yếu đến các
dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong và Kinh.
Đến
năm 2005, dân tộc Kinh chiếm 88,8%, Hrê 8,58%, Cor 1,8%, Ca Dong 0,7%;
số người thuộc 13 dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm 0,12% dân số. Do vậy,
nếu tính về dân tộc thì ở Quảng Ngãi có đến 17 dân tộc, nhưng thực chất
cũng chỉ có 4 dân tộc có số lượng cư dân đáng kể. Nhìn chung, khối cộng
đồng dân cư Quảng Ngãi phát triển theo tiến trình của lịch sử, cùng đoàn
kết, chung sức chung lòng trong công cuộc chống phong kiến - đế quốc,
dựng xây quê hương giàu đẹp.
II. THÀNH PHẦN DÂN TỘC
1. DÂN TỘC KINH (VIỆT)
Tộc danh chính thức gọi là Việt, nhưng để phân biệt với các dân tộc thiểu số, thì người Việt thường được gọi là người Kinh.
Có
thể cư dân Việt đã có mặt đầu tiên ở Quảng Ngãi vào đầu thế kỷ XV. Năm
1402, qua cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và phong kiến Chămpa,
vua Chămpa nhượng hai châu Chiêm Động và Cỗ Lũy Động cho nhà Hồ. Hồ Qúy
Ly đổi đặt thành 4 châu Thăng, Hoa (Quảng Nam), Tư, Nghĩa (Quảng Ngãi).
Hồ Qúy Ly ra lệnh cho dân có của cải mà không có ruộng đất ở vùng Nghệ
An, Thanh Hoá đem vợ con di cư vào vùng đất mới để khai khẩn; việc di
dân này phần nào có tính bắt buộc. Những người không có của cải, phương
tiện canh tác thì nhà Hồ cấp phát trâu cho họ. Nhà nước vận động dân
chúng: ai có trâu đem hiến nộp sẽ được cấp phẩm tước. Hồ Qúy Ly bắt buộc
những người nông dân di cư không được quay về bản quán, sau khi đã
thích dấu hiệu lên cánh tay của họ. Các sử sách chép rằng: chữ Châu được
thích lên cách tay những người lưu dân. Đây là cuộc di dân đầu tiên của
người Kinh đến vùng đất Quảng Ngãi.
Năm
1472, sau cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng đất từ nam
đèo Hải Vân đến núi Thạch Bi nằm trong sự quản lý của Đại Việt và được
đặt thành đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm có 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và
Hoài Nhân. Nhà Lê chiêu mộ dân chúng vào khai khẩn đất hoang và đồng
thời khuyến khích quan lính ở lại mở mang đồn điền, phát vãng những tù
nhân lưu đày vào nơi đây. Đây là những nguồn nhân lực chủ yếu để khai
phá vùng đất mới. Nhà nước không có chế độ hạn điền, cho phép dân chúng
mặc sức khai khẩn đất đai, cho phép thu lợi 3 năm trên vùng đất ấy rồi
mới thu thuế. Đây là cuộc di dân lần thứ 2 của người Kinh đến vùng đất
Quảng Ngãi. Cuộc di dân này rất quan trọng; đây là thời điểm bắt đầu
hình thành nên những làng người Việt và những dòng họ lớn ở trên vùng
đất thừa tuyên Quảng Nam.
Thời
chúa Nguyễn, cư dân Việt ở Quảng Ngãi tương đối ổn định nhưng vẫn còn
thưa thớt. Với ý đồ cát cứ phương Nam, chúa Nguyễn tiếp tục khuyến khích
dân Việt từ vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay vào đây khai khẩn, lập
nghiệp. Năm 1648, chúa Nguyễn đánh thắng chúa Trịnh ở Quảng Bình, bắt
sống 30.000 quân lính, phiên đặt họ cứ 50 người thành một ấp, dọc theo
bờ biển, bắt đầu từ Quảng Nam trở vào phía nam. Dấu vết của làng Việt
này còn thấy ở làng Tráng Liệt (huyện Tư Nghĩa) mà gia phả còn truyền
lưu.
Quá
trình phát triển của dân tộc Kinh, được trình bày trên, là qúa trình
phát triển lâu dài theo chiều thời gian, cụ thể là càng ngày cư dân càng
phát triển lớn về số lượng.
Vùng
cứ trú hiện nay của người Kinh tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và
các thị tứ, thị trấn ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi; một số sinh sống đan
xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi. Khu vực đồng bằng, dân tộc
Kinh có khoảng 1.077.841 người, chiếm 83,7% dân số toàn tỉnh và chiếm
94,8% tổng số dân tộc Kinh ở Quảng Ngãi.
Bảng dân số và phân bổ dân số theo địa bàn của người Kinh (31.12.2005)
Huyện, thành phố
|
Tổng số (người)
|
Dân tộc Kinh (người)
|
Quảng Ngãi
|
123.505
|
123.230
|
Bình Sơn
|
180.730
|
180.254
|
Sơn Tịnh
|
195.361
|
195.325
|
Tư Nghĩa
|
181.951
|
180.140
|
Nghĩa Hành
|
100.233
|
99.489
|
Mộ Đức
|
145.319
|
145.272
|
Đức Phổ
|
154.208
|
154.131
|
Trà Bồng
|
29.417
|
18.590
|
Tây Trà
|
15.825
|
258
|
Sơn Hà
|
66.389
|
11.469
|
Sơn Tây
|
15.604
|
1.138
|
Minh Long
|
15.006
|
3.998
|
Ba Tơ
|
48.891
|
5.785
|
Lý Sơn
|
20.158
|
20.051
|
2. DÂN TỘC HRÊ
Hrê là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi sau dân tộc Kinh.
Đến
năm 2005, dân số Hrê ở Quảng Ngãi có 112.947 người, cư trú ở các huyện
Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Ming Long, Ba Tơ, Nghĩa Hành và Tư
Nghĩa. Tuy địa bàn cư trú phân bố rộng như vậy nhưng dân tộc Hrê cư trú
tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Người Hrê sống đan xen
với người Kinh ở vùng tây các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa. Các làng Hrê
đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía đông huyện Sơn Tây và sống đan
xen với người Cor ở các xã phía nam của huyện Trà Bồng. Ngoài ra, một
vài nhóm nhỏ của dân tộc Hrê cư trú ở huyện Kon Plong (tỉnh Kon Tum) và
huyện An Lão (tỉnh Bình Định).
Hrê
là tộc danh chính thống của dân tộc này. Trước kia dưới thời triều
Nguyễn và Pháp thuộc, người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý
khinh miệt, như "Mọi Đá Vách", "Mọi Thạch Bích", "Mọi Sơn Phòng",
“Thượng Ba Tơ", "Mọi Lũy", "Mọi Chòm", "Chăm Rê", "Chăm Quảng Ngãi"...
Tuy nhiên, tên tự gọi của đồng bào Hrê thường theo tên của dòng sông lớn
trong vùng. Chẳng hạn ở Minh Long có sông Rvá nên nhóm Hrê ở đây gọi là
người Rvá; ở Ba Tơ có sông Liên nên gọi là người Nước Liên và nơi có
sông Rhe thì gọi là người Hrê; ở Sơn Hà có sông Krế nên gọi là người
Krế. Lưu vực sông Rhe được coi là ngọn nguồn của dân tộc. Sau cách mạng
tháng Tám 1945 được thống nhất chung tên gọi dân tộc Hrê.
Theo
truyền thuyết, nguồn gốc dân tộc Hrê gắn với núi Cao Muôn (huyện Ba Tơ)
và núi Mum (huyện Minh Long). Tiếng Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme
và thuộc ngành ngôn ngữ Bahnaric trong khu vực bắc Tây Nguyên. Tỷ lệ từ
chung khá cao bên cạnh một số biểu hiện tương đồng giữa tiếng Hrê với
tiếng Ba Na và Xơ Đăng. Đặc biệt, trong cộng đồng người Hrê còn lưu
truyền văn tự cổ sơ nhất, là "văn tự thắt gút" bằng các gút mây buộc
thắt (để đếm).
Người Hrê định cư thành từng làng (plây)
với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Làng Hrê xây dựng ven triền đồi, phía
dưới là thung lũng. Địa bàn cư trú nằm kề sát khu vực đất đai canh tác
và gần nguồn nước. Đồng bào chỉ di chuyển làng khi có dịch bệnh. Nhà sàn
Hrê nằm bố trí lớp lớp từ thấp lên cao, dựng ngang triền đồi, nằm gọn
trên khoảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Vòng rào làng xưa kia bao quanh
vốn ken dày, dựng cao lên nhằm canh phòng kẻ gian và thú dữ, nay đã biến
thành bờ dậu của từng nhà, hoặc vẫn rào quanh làng, nhưng chỉ để ngăn
gia súc.
Trong
xã hội truyền thống của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là
cộng đồng tự quản với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi
làng đều có chủ làng (krăng plây), là người lớn tuổi am
hiểu nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có trong
làng. Chủ làng là người cùng với thầy cúng (pơ dâu) tổ
chức các lễ cúng của làng. Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ
chức bắc máng nước, làm đường, rào làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải
quyết các vụ xử phạt, tổ chức chuyển làng... Để làm những việc đó, chủ
làng bàn bạc cùng với các thành viên trong hội già làng. Chủ làng hòa
mình vào trong đời sống của cộng đồng. Dân làng dành cho chủ làng sự
kính trọng và giúp đỡ chủ làng khi ngày mùa bận rộn... Chủ làng là chức
vụ bầu theo lối dân cử, không theo nguyên tắc cha truyền con nối. Mỗi
làng Hrê đều có thầy cúng là người thông thạo việc cúng tế thần linh.
Ngoài ra ở mỗi gia đình, dòng họ đều có tộc trưởng, đó là những người
già đứng đầu gia đình dòng họ. Các tộc trưởng quy tụ trong hội đồng già
làng. Chủ làng bàn bạc công việc sản xuất, xử kiện... với các thành viên
trong hội đồng già làng. Cuối cùng là các thành viên trong làng, những
thành viên này cùng đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong một khối cộng đồng
thống nhất.
Xã
hội truyền thống xưa kia của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do
chênh lệch về ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia
đình. Trong xã hội đó có bốn tầng lớp người: người giàu (proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (lắp ká), người thiếu ăn, kinh tế khó khăn (pa), người đi ở vì nợ, nô lệ vì nợ (hapoong, dik). Lắp ká và pa thường chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cộng đồng Hrê. Tuy nhiên, những hộ thiếu ăn thường xuyên có khi rơi vào trường hợp đi ở vị nợ. Proong- người giàu và hapoong
- người đi ở vì nợ thường chiếm tỉ lệ ít trong làng. Tiêu chí người
giàu được xác định là người có nhiều ruộng rãi tốt, có nhiều trâu, lợn,
gà, nhiều chiêng, ché quý, có kho thóc to, nhà cửa dài rộng, lễ tết có
mặc đồ đẹp, mang nhiều trang sức. Tuy nhiên, người giàu trong xã hội Hrê
thường không phải từ bóc lột mà chủ yếu từ sự lao động sản xuất cần cù,
tích lũy của cải bằng khả năng lao động của chính mình. Hapoong là
lớp người cùng cực nhất trong xã hội Hrê trước kia, vì nợ nần không trả
được họ phải ở làm trả công cho chủ nợ, thường bị đối xử thấp hơn so
với các thành viên khác trong làng. Ngày nay, trong cộng đồng Hrê không
còn sự phân biệt giữa các tầng lớp người như trên.
Nhìn
chung, xã hội Hrê vẫn mang tính cộng đồng nhất, đoàn kết gắn bó giữa
các thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vần đổi công, tương
trợ, tục chia sẻ trong ăn uống lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Sự
liên kết giữa các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên với
làng dựa trên quan hệ thân tộc hoặc quan hệ làng giềng.
Nguồn
kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất trong đời sống của người Hrê
là nông nghiệp trồng lúa nước. Các cánh đồng trồng lúa thường nằm men
theo triền đồi thấp, tạo thành những vùng ruộng bậc thang đặc trưng. Do
địa bàn cư trú xen giữa đồi núi và thung lũng nên người Hrê tận dụng địa
hình để mở mang đồng ruộng rất đa dạng, có ruộng trên các dải đất cao,
ruộng lầy ngập nước quanh năm, ruộng bậc thang nhỏ hẹp…Trên vùng ruộng
đó gieo cấy các loại giống lúa nước mỗi năm hai vụ, nhưng phần lớn chỉ
làm được một vụ. Canh tác ruộng nước của người Hrê bằng phương pháp
cuốc, cày, bừa, cấy mạ… tương tự như người Kinh ở Quảng Ngãi. Đặc biệt,
phương pháp đắp đập, dẫn thủy nhập điền của người Hrê khá phát triển.
Người ta dẫn nước về ruộng bằng con mương đào dài hàng kilômét theo
phương pháp thế năng. Ngoài ra, người dân còn làm đập bổi hay kè đá để
nước dân lên ruộng. Ruộng nước được canh tác hai vụ, vụ đông – xuân thu
hoạch từ tháng 4 đến tháng 5, vụ hè – thu thu hoạch từ thánh 8 đến tháng
9 Âm lịch.
Nguồn
thu nhập từ rẫy chiếm vị trí thứ hai sau thu nhập hoa lợi ruộng nước và
cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Hrê. Một vụ
lúa rẫy kéo dài từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 8, tháng 9. Lúa rẫy được
canh giữ chim thú từ khi còn nhỏ đến khi thu hoạch. Người ta làm chòi
rẫy để giữ lúa, để nghỉ ngơi, tránh nắng mưa khi đang mùa sản xuất và
chứa tạm sản phẩm thu hoạch trong lúc chưa kịp chuyển về làng. Rẫy canh
tác theo lối luân canh, mỗi đám rẫy chỉ canh tác một vụ rồi trồng thứ
khác hoặc bỏ hoang từ 3-5 năm, đợi rừng tái sinh mới canh tác tiếp, rồi
lại bỏ hoang hóa…
Nghề
thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong đời sống kinh tế tự
cung tự cấp. Nghề thủ công truyền thống của người Hrê gồm có nghề dệt,
đan lát. Đan lát là nghề của đàn ông, sản phẩm đan lát là các đồ dùng
trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Chăn nuôi gia súc, nhất là chăn
nuôi trâu và chăn nuôi gia cầm tương đối phát triển. Sản phẩm chăn nuôi
dùng trong buôn bán trao đổi, làm thực phẩm và dùng trong nghi lễ. Vùng
cư trú của người Hrê nằm ở vị trí thông thương với Tây Nguyên xuống và
đồng bằng lên nên rất thuận lợi trong trao đổi buôn bán. Thương nhân các
nơi khác, nhất là người ở vùng xuôi qua lại từng làng Hrê mua hạt cau
khô, hồ tiêu, mật ong, trầu, vải dệt… và bán công cụ sắt, áo quần, muối,
chè, đồ trang sức…
Bảng dân số và phân bổ dân số Hrê theo địa bàn (thời điểm 21.12.2005)
Huyện, thành phố
|
Tổng số (người)
|
Dân tộc Hrê (người)
|
Quảng Ngãi
|
123.505
|
57
|
Tư Nghĩa
|
181.951
|
1.764
|
Nghĩa Hành
|
100.233
|
713
|
Trà Bồng
|
29.417
|
235
|
Tây Trà
|
15.825
|
473
|
Sơn Hà
|
66.389
|
54.403
|
Sơn Tây
|
15.604
|
1.232
|
Minh Long
|
15.006
|
11.004
|
Ba Tơ
|
48.891
|
43.066
|
3. DÂN TỘC COR
Dân
tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ ba trong tỉnh Quảng Ngãi và là
dân tộc có số dân đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số, sau dân tộc
Hrê. Năm 2005, dân tộc Cor trong tỉnh Quảng Ngãi có hơn 24.550 người.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà của tỉnh Quảng Ngãi và một số ít của huyện Trà My tỉnh Quảng Nam.
Xưa kia, người ta hay gọi người Cor là người Cua, người Trầu. Sau này,
căn cứ vào phát âm khác nhau, người ta cũng ghi là Co, Cool, Kor…Tên tự
gọi của dân tộc là Cor, là tộc danh chính thức. Đồng bào có ý thức tự
giác tộc người cao, có ý bản địa và tự hào về truyền thống của tổ tiên.
Người Cor có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn-Khơme và thuộc nhóm ngôn ngữ
Bahnaric phía bắc.
Đơn vị cư trú của người Cor là làng (plây). Plây bao gồm phần thổ cư của làng và tất cả các loại đất đai sản xuất hay không sản xuất, rừng
núi, suối sông trong một phạm vi được xác định. Ranh giới của làng được
truyền khẩu qua nhiều thế hệ, có khi là dòng sông suối hay gốc cây,
tảng đá, đỉnh núi, con đường mòn… Toàn thể dân làng có quyền săn bắn,
hái lượm, bắt cá, đốn gỗ, dùng nước, canh tác rẫy, làm vườn trên đất
làng. Các làng thường nằm cheo leo trên sườn núi, làng có tên gọi riêng
theo tên người đứng đầu làng, theo tên sông, suối, tên đất, tên rừng,
cũng có tên làng phản ánh đặc điểm nào đó của nơi cư trú. Tuỳ thuộc chu
kỳ quay vòng canh tác rẫy, đồng bào phải di chuyển chỗ ở, nhưng chỉ
chuyển quanh trong khu vực đã xác định của làng mình.
Thiết chế xã hội truyền thống của người Cor là đơn vị tự quản. Đứng đầu là chủ làng (Kà răh plây),
là người có uy tín cao, giàu kinh nghiệm làm ăn, giàu có, xử lý tốt các
vụ tranh chấp và là dân gốc. Nhiệm vụ của chủ làng là đôn đốc sản xuất
cũng như bảo vệ làng, tổ chức lễ cúng tập thể cùng các nghi thức tôn
giáo khi chuyển làng, dàn xếp bất hòa nội bộ hoặc xích mích giữa làng
đối với bên ngoài, chủ trì giải quyết các vụ vị phạm luật tục. Sự kính
trọng của dân làng đối với vị đứng đầu làng của mình được thể hiện qua
cư xử hàng ngày, qua việc mời ăn uống, việc tín nhiệm khi bàn bạc công
việc chung hay riêng. Trong không gian nhà dài ( nhà xlúp),
chủ làng thường ở khoảng giữa nhà để tiện điều hành sinh hoạt và liên
hệ với các hộ khác. Trong làng có nhiều dòng họ kế tiếp nhau làm chủ
làng, có thân thế mạnh trong cộng đồng người Cor. Trong hoàn cảnh xưa
kia, vùng người Cor hay xảy ra xung đột, cướp phá, nên việc tổ chức làng
tự vệ là yêu cầu rất cần thiết. Trong làng các trai tráng khoẻ mạnh họp
thành nhóm dũng sĩ (gọi là lôk lôk, lôk kal - người
dũng cảm, người can đảm). Đó là những thanh niên đàn ông khoẻ mạnh, có
tài bắn nỏ, giỏi phóng lao đứng ra tập hợp trai làng bố phòng và chiến
đấu. Nhiệm vụ của nhóm dũng sĩ là chống lại những kẻ phá hoại cuộc sống
ổn định trong làng và chống giặc cướp, giữ gìn an ninh trong vùng.
Nội
bộ làng Cor bao gồm các quan hệ láng giềng và quan hệ thân tộc cùng tồn
tại và chi phối đời sống con người. Người trong làng, phần đông là họ
hàng, dâu rể xa gần, quan hệ chằng chéo với nhau; số người thuần túy
cộng cư, không có liên hệ huyết thống hay hôn nhân với gia đình khác chỉ
là số người rất ít ỏi. Hình thái gia đình nhỏ của người Cor phát triển
phổ biến, bên cạnh đó còn một ít tàn dư gia đình lớn. Tộc trưởng là
người đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành đời sống gia đình,
giao tiếp với khách, cùng đại diện của các gia đình khác họp bàn, giải
quyết những công việc chung dưới sự chủ trì của chủ làng. Trước đây,
hàng chục gia đình cùng dòng họ, hoặc thân thiết, chung sức làm thành
một nhà sàn dài trên sườn đồi, bên suối nước, gần nương rẫy. Mỗi nhà sàn
gọi là một nóc, mang tên người đứng đầu nóc. Mỗi nóc chia thành nhiều cửa, mỗi cửa là một bếp, mỗi bếp là một nơi cư trú của một gia đình.
Đặc
trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương gẫy làm
nguồn thu nhập chính. Đồng bào có nhiều giống lúa rẫy. Lúa rẫy gieo
trồng vào tháng 5, thu hoạch vào tháng 10. Bắp và mì cũng được trồng
trên rẫy. Bắp thường tỉa hạt vào tháng 4 và tháng 12. Đó
là giống bắp hạt đỏ, hai thánh rưỡi thu hoạch, là nguồn lương thực cứu
đói trong thời kỳ giáp hạt. Vùng canh tác của người Cor có độ dốc khá
lớn, bị xói mòn nhanh theo những trận mưa dữ dội nên người Cor chỉ gieo
trồng một vụ đã phải bỏ hoá một vài năm. Đồng bào quay vòng canh tác
luân khoảnh trên diện tích khác. Loại rẫy định canh không nhiều. Đó là
những mảnh đất ít dốc hay tương đối bằng, có thể sử dụng liên tục,
thường để trồng thuốc lá, ngô, sắn, cây ăn quả. Với phương pháp đa canh,
xen canh, rẫy cho nhiều loại sản phẩm, đáp ứng phần lớn nhu cầu thiết
yếu hàng ngày, từ lương thực cho đến rau xanh, trái cây, thuốc hút,
thuốc bệnh.
Vùng
người Cor nổi tiếng về giống trầu không và quế. Trầu vừa nhiều vừa
ngon, là một nguồn hàng quen thuộc được thương khách miền xuôi ưa thích.
Trầu góp phần tăng cường quan hệ giao lưu giữa đồng bằng với vùng núi.
Chính vì thế mà đồng bào Cor còn có tên gọi là tộc người Trầu. Đặc biệt, người Cor có nhiều rừng quế bạt ngàn, gồm các loại chính: quế rừng mọc tự nhiên trong núi, quý giá, nhưng hiếm; quế thanh hay quế đắng, quế bùi được
trồng nhiều. Người Cor trồng cây quế bằng phương pháp ươm hạt. Mùa
trồng quế có mưa nhiều, vào những tháng cuối năm. Thường trên 10 năm,
thậm chí 15-20 năm, quế mới đến “tuổi” lột vỏ. Thu hoạch quế khá vất vả,
phải trèo leo, nên chủ yếu là công việc của đàn ông. Người ta dùng dao
tiện vòng tách vỏ ra. Vỏ quế phơi trong bóng rợp, ủ và phơi úp dưới nắng
nhạt. Quế khô bó lại thành từng bó. Quế rừng được bảo quản cẩn thận
hơn, thường để trong ché lớn có nắp đậy kín. Quế rừng là loại thượng
hạng, đắt nhất, bởi giá trị trội vượt của nó. Quế nách
được lấy từ chỗ chạc cây, chạc cành. Trong điều kiện rẫy không cung cấp
đủ và ổn định được lúa và hoa màu, ít ruộng, thiếu những nghề phụ góp
phần bảo đảm nuôi sống con người, nên cây quế có vai trò rất quan trọng
đối với người Cor.
Bảng dân số và sự phân bố dân số của dân tộc Cor
(thời điểm 31.12.2005)
Huyện
|
Tổng số (người)
|
Dân tộc Cor (người)
|
Bình Sơn
|
180.730
|
419
|
Trà Bồng |
29.417
|
10.430
|
Tây Trà
|
15.825
|
13.580
|
Sơn Hà
|
66.389
|
134
|
4. DÂN TỘC CA DONG
Ca Dong là tộc người có số dân đứng thứ tư trong tỉnh Quảng Ngãi.
Địa
bàn cư trú của tộc người Ca Dong phân bố ở các huyện Sơn Tây (Quảng
Ngãi), Sa Thầy, Kon Plong (Kon Tum), Trà My (Quảng Nam). Tộc người Ca
Dong là một nhóm địa phương của dân tộc Xơ Đăng, thuộc ngữ hệ Môn –
Khơme và thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnaric.
Hiện
nay với mức độ tài liệu hiện có, chúng ta có thể tin rằng những tộc
người thuộc dân tộc Xơ Đăng có lịch sử cư trú lâu đời trên vùng đất bắc
Tây Nguyên – nam Trường Sơn, trong đó tộc người Ca Dong có địa bàn cư
trú phân tán nhất, có thể ban đầu địa bàn cư trú của họ nằm quanh dãy
núi Ngọc Linh, chạy dài từ huyện Trà My (Quảng Nam) đến bắc Kon Plông
(Kon Tum), sau đó đã có một bộ phận đến cư trú ở vùng huyện Sa Thầy, Đắk
Glây (Kon Tum) và huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi). Việc chuyển cư của tộc
người Ca Dong được lưu lại qua truyền thuyết dân gian về câu chuyện hai
anh em bất hòa nhau vì ăn thịt một con dúi (con chúc), sau đó chia hai,
người anh ở lại phía tây dãy Ngọc Linh trở thành tổ tiên của nhóm Ca
Dong ở Sa Thầy, Đắk Glây; người em đi về phía đông phát triển nòi giống
là tổ tiên của nhóm ở Sơn Tây, Trà My, Kon Plông. Người Ca Dong có
truyền thuyết (amon) về nguồn gốc phát xuất của tộc
người giống nhau. Đó là câu chuyện về người đàn bà duy nhất còn sống sót
sau nạn đại hồng thuỷ nhờ chạy tránh lên đỉnh núi cao nhất trong vùng
và người đàn bà ấy là thuỷ tổ - người mẹ của dân tộc. Tộc danh Ca Dong có nghĩa là người sống trên núi cao.
Ý nghĩa của tộc danh này cũng đã phản ánh địa bàn cư trú của người Ca
Dong quanh vùng núi Ngọc Linh hùng vĩ, và trên đỉnh mái nhà phía tây của
tỉnh Quảng Ngãi, nơi bắt nguồn những dòng sông, suối đổ về sông Trà
Khúc.
Kinh
tế truyền thống của tộc người Ca Dong chủ yếu là nông nghiệp rẫy. Nông
nghiệp rẫy canh tác theo kiểu luân canh luân khoảnh, tức khai phá theo
chu kỳ kín, trồng trọt vụ đầu tiên, sau có thể sử dụng tiếp đến vụ hai,
vụ ba, rồi bỏ hoang hóa khoảng 10-12 năm mới canh tác lại. Người Ca Dong
không phát rẫy ở gần ngọn nước, đây là điều nghiêm cấm để bảo vệ nguồn
nước của làng. Xưa kia mỗi gia đình có diện tích rẫy từ 7 đến 8 gùi
giống. Nông lịch trồng trọt ở rẫy của người Ca Dong như sau: tháng 3, 4
phát rẫy; tháng 5, 6 đốt rẫy; tháng 7, 8, 9 trồng xen canh các loại rau
củ…; tháng 10, 11, 12 thu hoạch lúa; tháng 1, 2 nghỉ ngơi ăn tết. Lúa
rẫy là các giống lúa có chu kỳ từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch
khoảng 6 tháng, gồm các loại lúa như mau thế, mau hem, mau pi, mau ka diêu, mau ka xon, mau nhiên…Trong các rẫy lúa cũng như các mảnh vườn, đồng bào thường trồng bầu, bí, rau, đậu, cây có củ, đặc biệt trên rẫy trồng loại cây pho
trái có hạt cơm trắng, ăn rất ngon, có giá trị như lương thực chống
đói. Rẫy được chăm sóc, làm cỏ và chống thú rừng, chim chóc bằng cách
rào rẫy, săn bắn, dùng bẫy, chông, nỏ, bù nhìn, đàn nước…
Từ
sau năm 1975, chính quyền địa phương đã vận động người Ca Dong chuyển
dần tập quán canh tác sang làm ruộng nước. Nhờ khai phá, diện tích ruộng
nước dần dần tăng lên và diện tích rẫy thu hẹp vì hiệu quả không cao.
Người Ca Dong hiện nay đã làm ruộng nước thuần thục, đã được chính quyền
giúp đắp đập ngăn nước chảy vào các con mương để đưa nước vào ruộng.
Những thửa ruộng bậc thang nói chung không rộng lắm do địa thế đất trong
vùng rất hẹp. Công cụ làm ruộng có cuốc, cày, bừa. Chăm sóc lúa đã dùng
phân bón và thuốc trừ sâu. Ruộng cấy hai vụ thu hoạch năng suất tương
đối khá.
Bên
cạnh rẫy và ruộng, người Ca Dong còn có vườn. Vườn ở đây chiếm một vị
trí khá quan trọng, nhất là việc trồng cau, thu trái bán đi các nơi
trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra, vườn còn cung cấp thực phẩm, rau củ cho
đồng bào, làm giảm bớt lượng thức ăn do rừng cung cấp hái lượm. Trong
kinh tế sản xuất của đồng bào Ca Dong, chăn nuôi đóng vai trò quan
trọng. Người ta nuôi trâu, dê, heo, gà… số lượng có khi lên đến hàng đàn
đông đúc. Sản phẩm chăn nuôi được dùng vào các mục đích như cung cấp
thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày, cho các lễ thức tín ngưỡng và cho các
hoạt trao đổi buôn bán. Chăn nuôi chủ yếu theo cách thả rông.
Ngoài
kinh tế sản xuất nông nghiệp, người Ca Dong còn khai thác lâm thổ sản,
thuỷ sản, các ngành kinh tế này đóng vai trò quan trọng, góp phần thoả
mãn nhu cầu lương thực và thực phẩm của đồng bào. Sắn bắn ở đây phát
triển hơn đánh cá và hái lượm. Săn bắn là một cơ hội tích lũy các sản
phẩm quý như da hổ, sừng tê, nhung hươu, xương thú… để có hàng trao đổi
lấy chiêng, ché và các nhu yếu phẩm. Công cụ sử dụng trong săn bắn
thường là ná được làm bằng cây long rui, mũi tên làm từ
nứa, lồ ô. Ná như một vật trang sức của đàn ông, người ta rất quý trọng
và đặt nó ở gian giữa nơi tiếp khách của chủ nhà. Ngoài ra, người Ca
Dong có nhiều loại bẫy thú như bẫy ka rấu là loại bẫy thòng lọng, thú bị vướng bẫy chân sẽ bị buộc vào và treo lên; bẫy ka rấu mun, bẫy a kíp là loại bẫy chuột; bẫy ra năk là
loại mang cung … Thịt thú rừng săn được đem về chia cho xóm làng. Người
đi săn giữ lại một phần thịt và đặc biệt là xương má con thú, người ta
để nó ở vị trí trang trọng nơi gian giữa của nhà.
Người
Ca Dong vốn có nghề dệt vải phát triển nhưng nay đã mai một. Tất cả khố
váy đều mua từ những người đồng tộc Xơ Đăng hay mua từ dân tộc Hrê.
Người Ca Dong rất giỏi đan lát, những chiếc gùi mà họ đan có dáng cân
đối hài hòa, hoa văn đẹp. Nghề đan lát được cha mẹ truyền dạy cho con từ
nhỏ đến lúc trưởng thành, là tiêu chí quan trọng của người đàn ông
trước khi lập gia đình. Người Ca Dong không có nghề làm gốm, tất cả đồ
gốm đều được mua về từ bên ngoài. Đồ gốm chủ yếu là ché dùng để đựng
rượu cần.
Địa
bàn cư trú của người Ca Dong nằm giáp giới với vùng Tây Nguyên, có
nhiều đường bộ liên thông nên thường có các cuộc trao đổi hàng hoá với
miền xuôi. Người Ca Dong mua các loại chiêng, ché, vải mặc, nồi đồng,
buôn bán trao đổi bằng nguồn quế, loại cây hương liệu có giá trị thương
phẩm cao lúc bấy giờ. Ngoài ra, các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò, dê
được buôn bán trao đổi cho các cư dân vùng Tây Nguyên để lấy chiêng,
ché.
Đơn vị cư trú cơ bản của tộc người Ca Dong là plây (làng) hay plây pla (làng xóm). Lớn hơn đơn vị làng xóm gọi là gung (vùng), gồm nhiều làng hợp lại. Khái niệm plây hoàn chỉnh bao hàm mỗi làng có một ranh giới (bơla) nhất định, ranh giới đó có thể là những khu rừng vô chủ. Mỗi một plây bao gồm một khu dân cư tập trung với những nóc nhà (nhe) gắn với những kho thóc của các hộ gia đình. Mỗi plây có chung một máng nước để uống, nước uống rất quan trọng và là tiêu chí chọn lựa đầu tiên khi lập một làng mới. Mỗi plây có chung một nghĩa địa rừng ma (ha năng) được coi là khu rừng thiêng. Khu rừng này phải nằm ở phía dưới nguồn nước. Quan trọng hơn, mỗi plây có
chung một vùng ruộng rẫy canh tác, một vùng rừng chăn nuôi và săn bắn,
một đoạn sông, suối chảy quan đất làng. Làng của người Ca Dong, các ngôi
nhà sàn được quy hoạch theo cùng hướng, không cắt phá nhau nên nhìn từ
xa trông rất đẹp.
Dưới plây (làng) có nóc, tập hợp một vài ngôi nhà dài. Trong
mỗi nóc nhà dài có năm bảy thế hệ cùng sinh sống, đó là các tiểu gia
đình trong một đại gia đình phụ hệ. Khác với nhiều cư dân Tây Nguyên và
những người đồng tộc Xơ Đăng, làng của người Ca Dong không có nhà rông. Ở
đây có loại hình nhà dài; mọi sinh hoạt mang tính tập thể của cộng đồng đều diễn ra ở nhà của chủ làng (k’răh plây).
Thiết
chế xã hội truyền thống của người Ca Dong là một thiết chế ổn định, bền
chặt. Người đứng đầu plây gọi là chủ làng. Chủ làng được cộng đồng làng
chọn lựa bầu lên, là người có uy tín, nhân cách, được mọi người trong
làng kính trọng, có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về luật tục và lao động
sản xuất, có nhiều chiêng ché trong nhà, trâu bò nhiều ngoài rừng, được
xem là gia đình giàu có. Vai trò của chủ làng trong cộng đồng tộc người
Ca Dong rất lớn. Nhiệm vụ của chủ làng là chịu trách nhiệm chọn đất lập
làng, chọn nguồn nước, chọn nguồn rẫy canh tác, là người có trách nhiệm
cúng tế thần linh, đứng ra giải quyết các vụ việc tranh chấp, phân xử
những việc vi phạm đến tập quán. Chủ làng đại diện cho làng mình trong
việc giao tiếp với làng khác, chủ làng còn là người quyết định những
cuộc chiến đấu giữa làng hoặc tiếp xúc với các đoàn buôn hay thương lái
từ bên ngoài đến buôn bán. Khi dân làng thiếu ăn hay đau, ốm chủ làng
phải giúp gạo lúa, heo gà cho người bị nạn và không bắt buộc thời hạn
trả cũng như trả lãi. Chủ làng là người thường hay tổ chức lễ ăn trâu tạ
ơn thần linh, đồng thời qua đó thể hiện sự giàu có của mình cũng như
tập hợp những dòng họ trong làng để con cháu có thể biết được nhau. Phó
chủ làng (jang k’răh plây) là người trực tiếp giúp việc cho chủ làng khi
chủ làng đi vắng hay đau ốm. Tộc trưởng (k’răh nhê) là
những người đứng đầu mỗi nóc nhà dài. Các tộc trưởng cùng hợp nhất thành
hội đồng tộc trưởng (già làng). Hội đồng tộc trưởng cùng với chủ làng,
phó chủ làng bàn thảo, quyết định một việc quan trọng nào đó trong làng.
Thầy cúng (pơ dâu) là người đại diện trung gian giữa
thần linh và con người. Thầy cúng biết rất nhiều bài hát cũng thần linh
cùng với các nghi thức cúng tế. Làng Ca Dong là một cộng đồng gồm những
thành viên có hay không cùng quan hệ huyết thống. Những thành viên không
đồng tộc nếu gia nhập làng hay dâu, rể trong làng đều dựa trên nguyên
tắc sống hòa mình vào cộng đồng làng, tự coi mình là người đồng tộc, là
thành viên của làng, theo tập quán của làng. Tất cả các thành viên trong
làng đều bình đẳng và cố kết nhau trong một khối cộng đồng làng thống
nhất được quy định bởi luật tục.
Trong
xã hội truyền thống của người Ca Dong đã có sự phân chia giàu nghèo,
dựa trên lượng lúa gạo thu hoạch, chiêng, ché, trâu bò… Trong làng có ba
loại người: người giàu, người đủ ăn và người nghèo, nhưng chưa thấy có
sự bóc lột nhau. Làng Ca Dong là một cộng đồng bền chặt trên cơ sở tập
quán truyền miệng từ đời này qua đời khác. Đó là một cộng đồng mà mọi
thành viên đều một lòng một dạ mong muốn cho làng của mình ngày càng lớn
nhanh như cây gạo và tồn tại mãi mãi như cây da, cây si.
Bảng dân số và phân bổ dân số của dân tộc Ca Dong theo địa bàn
(thời điểm 31.12.2005)
III. QUAN HỆ GIỮA CÁC TỘC NGƯỜI
Từ
thời tiền sử, trên vùng đất Quảng Ngãi phần nào đã có sự hợp chủng hòa
huyết giữa các nhóm Nam Đảo và nhóm Nam Á. Từ thế kỷ XV trở đi, trên
vùng đất Quảng Ngãi đã có sự hợp huyết nhất định giữa người Chăm bản địa
và người Kinh từ miền Bắc di cư vào, giữa người thiểu số miền núi và
người Kinh đồng bằng, giữa người Kinh và nhóm người Hoa di cư từ Nam
Trung Hoa đến. Giữa các dân tộc anh em đã có sự giao lưu, trao đổi từ
lâu đời với nhau.
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, tinh thần đoàn kết các dân tộc trên đất Quảng Ngãi càng được
phát huy mạnh mẽ. Các cụ Phó mục Gia, Chánh Nhá, Phó Nía… và nhiều chiến
sĩ yêu nước, cách mạng của dân tộc Cor, Hrê, Ca Dong là tiêu biểu cho
tinh thần đoàn kết Kinh - Thượng, đấu tranh bất khuất, sẵn sàng xả thân
cứu dân, cứu nước và lý tưởng độc lập, tự do, vì hạnh phúc chung.
Các
dân tộc thiểu số Quảng Ngãi cùng nằm trong một khu vực lịch sử - dân
tộc học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau tham gia
vào những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các triều đại phong
kiến và những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Đặc biệt, sống trong vùng
thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt, đồng bào các
dân tộc miền núi đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết, gắn bó cùng nhau
để sinh tồn. Các mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hoá, xã hội giữa
các dân tộc đã có từ lâu đời. Nhưng mỗi tộc người đều có những phong tục
tập quán và đặc điểm riêng.
Về
kinh tế, quan hệ mua bán, trao đổi giữa các dân tộc thực hiện bằng
nhiều hình thức, đã được xác lập từ lâu đời. Đồng bào trao đổi với nhau
các công cụ lao động như dao, rựa, những sản vật từ săn bắt, hái lượm
được hoặc những đặc sản như quế, trầu, cau, chè… Mối quan hệ giao lưu
kinh tế đó diễn ra không chỉ trong nội bộ tộc người mà còn diễn ra giữa
các tộc người cận cư, đặc biệt là với người Kinh để trao đổi, mua bán
các sản phẩm nông, lâm nghiệp và các nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc
sống của đồng bào.
Về
mặt ngôn ngữ, mỗi dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi thường không chỉ nói
ngôn ngữ mẹ đẻ, mà còn biết tiếng nói các dân tộc láng giềng. Vì cùng
chung hệ ngôn ngữ Môn – Khơme nên các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong rất dễ
dàng hiểu tiếng nói của nhau.
Cho
đến nay, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc thiểu số đã đến mức trong
các hình thức sinh hoạt văn hoá của từng tộc người thật khó phân biệt
rạch ròi đâu là yếu tố bản sắc riêng của tộc người, đâu là yếu tố vay
mượn. Đó là những phong tục tập quán như hội mùa, hội cồng chiêng, lễ
đâm trâu hay những hình thức văn nghệ dân gian như truyện cổ, dân ca,
các nhạc cụ… Các mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi Quảng Ngãi ngày
càng được củng cố và phát triển về mọi mặt, phù hợp với xu thế thời đại
và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của bà con các dân tộc miền núi
trên con đường hội nhập đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
qqqqq
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét