Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

chim trĩ giống , chim trĩ thịt bán , cung cấp ở tại tphcm , ban chim tri thit , cung cap chim tri giong tp hcm hồ chí minh , sài gòn

 

TPHCM: Mở rộng mô hình nông thôn mới đến 56/56 xã
(HCM CityWeb) – Ngày 5-3, Thành ủy, UBND TPHCM đã tổ chức hội nghị tổng kết xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới giai đoạn 2010-2012. Đến dự có ông Lê Thanh Hải, Bí thư Thành ủy TPHCM; ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phó ban Thường trực Ban chỉ đạo (BCĐ) Chương trình xây dựng nông thôn mới Trung ương; ông Nguyễn Văn Đua, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Trưởng BCĐ Chương trình xây dựng nông thôn mới TPHCM; ông Lê Minh Trí, Phó Chủ tịch UBND TP và các đại biểu.
Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải và Bộ trưởng Cao Đức Phát xem triển lãm các sản phẩm nông nghiệp nông thôn mới.
Theo báo cáo kết quả thực hiện chương trình tại 6 xã điểm, thu nhập bình quân của nông dân đạt 31,5 triệu đồng/người/năm, gấp 1,83 lần so với trước khi thực hiện đề án xây dựng nông thôn mới. Số hội nghèo giảm 80%, từ 5.721 hộ còn 1.188 hộ. Tỷ lệ lao động có việc làm trên 90%.
Qua chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, doanh thu bình quân 1 ha đất sản xuất nông nghiệp liên tục tăng từ 138,5 triệu đồng/ha năm 2009 lên 239 triệu đồng/ha năm 2012. Đã bước đầu đúc kết những nhân tố về giống cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao theo hướng nông nghiệp đô thị như: bò sữa, rau an toàn, hoa lan, cây kiểng, cá kiểng.                 Về xây dựng cơ sở hạ tầng, đã thực hiện 283 công trình giao thông, 103 công trình thủy lợi, 95 công trình văn hóa-xã hội, xóa 430 căn nhà tạm, dột nát. Tổng kinh phí thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn TPHCM đến tháng 1/2013 đạt 6.900 tỷ, trong đó TP chi 1.382 tỷ , đạt tỷ lệ 20%, người dân và cộng đồng đóng góp 5.497 tỷ đồng , đạt tỷ lệ 79%.
 Chương trình xây dựng thí điểm nông thôn mới TPHCM đã ghi nhận các điển hình tập thể và cá nhân trong hiến đất làm đường, trong phát triển sản xuất nâng cao thu nhập, vượt khó vươn lên làm giầu.
 Bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên xây dựng nông thôn mới, từ năm 2001 đến nay, TP đã thực hiện 03 mô hình thí điểm phát triển nông thôn, tương ứng 03 giai đoạn. Giai đoạn 2001-2007: xây dựng thí điểm mô hình phát triển nông thôn cấp xã theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa, dân chủ hóa.Từ năm 2007 đến hết 2010: xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới cấp ấp. Từ tháng 5/2009 đến nay: xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới cấp xã trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
 Năm 2013, TP tiếp tục phát huy, nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt tại 6 xã điểm và đẩy mạnh triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới tại 50 xã nhân rộng. Đến 2015, phấn đấu 56/56 xã cơ bản đạt chuẩn 19 tiêu chí nông thôn mới.
 

Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải và Chủ tịch UBMTTQVN TP Dương Quan Hà tặng hoa cho các điển hình xây dựng nông thôn mới
 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho rằng, cách làm của TPHCM vừa đúng chỉ đạo của trung ương vừa có nhiều sáng tạo, là những kinh nghiệm tốt để các nơi tham khảo. Đó là sự quyết tâm chỉ đạo của các cấp cũng như sự tham gia tích cực của các đoàn thể. Việc làm tốt công tác tuyên truyền về mục đích và ý nghĩa của việc xây dựng nông thôn mới đã giúp người dân tham gia tích cực vào chủ trương lớn của Đảng.
 Bộ trưởng Cao Đức Phát đề nghị TP phát huy hơn nữa việc tuyên truyền cho cán bộ và người dân về chủ trương đúng đắn của Đảng. Người nông dân là chủ thể xây dựng nông thôn mới, thông qua phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề  để tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của lao động nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng nông nghiệp dịch vụ đô thị. Đảng bộ và chính quyền các cấp và các đoàn thể có vai trò tích cực tham gia hỗ trợ. Bộ trưởng cũng đề nghị xây dựng tiêu chí nông thôn mới đến cấp ấp, xóm và hộ gia đình.   
 Phát biểu chỉ đạo buổi tổng kết, Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải nhấn mạnh, chính tính đúng đắn của chủ trương đã khơi gợi và phát huy nội lực nhân dân tại các xã. Khẳng định, nhân dân là chủ thể quyết định sự thành công của chương trình. Các doanh nghiệp với tâm huyết, tình cảm gắn bó mật thiết với nông dân và nông thôn đến đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Hàng ngàn cá nhân hiến đất làm đường, phát triển sản xuất, vượt khó làm giàu… Có thể khẳng định, những nhân tố nông thôn mới các xã ven đô thị đã hình thành, bắt đầu phát huy tác dụng, làm cơ sở cho việc tiếp tục nhân rộng mô hình tất cả các xã còn lại. Cái được lớn nhất là Nghị quyết của Đảng hợp lòng dân đã đi vào cuộc sống. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc với quyết tâm làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức trách nhiệm trước dân.
 Để chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, tạo ra diện mạo mới cũng chính là quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát triển TPHCM, ông  Lê Thanh Hải chỉ đạo tiếp tục phát huy và nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt tại 6 xã điểm; đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phấn đấu cơ bản hoàn thành vào cuối năm 2015, phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững. BCĐ nông thôn mới các cấp nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và TP; phát huy tính chủ động, sáng tạo, quyết tâm hơn nữa. Đảng ủy các xã đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng đi sát, lắng nghe ý kiến của người dân. TP cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, hỗ trợ nông dân, nông nghiệp… tạo điều kiện thúc đẩy, gắn với thực hiện đề án phát triển nông nghiệp đô thị đến năm 2020. Các doanh nghiệp TP có phương án hợp tác, liên kết sản xuất, hỗ trợ giải quyết đầu vào, đầu ra nông sản tại các xã…
TPHCM: Tuyến tàu điện ngầm số 2 sẽ được khởi công vào cuối năm 2013
(HCM CityWeb) Chiều 6-3, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Hữu Tín đã tiếp Đoàn Nghị sĩ Quốc hội Cộng hòa Liên Bang Đức do ông Uwe Karl Beckmeyer, Đại biểu Quốc hội Liên bang, Điều phối kinh tế hàng hải của Đoàn Nghị sĩ Đảng dân chủ xã hội SPD dẫn đầu đến tìm hiểu về tình hình giao thông chung của TP và việc thực hiện dự án tàu điện ngầm tuyến số 2.

Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Hữu Tín và đoàn Nghị sĩ Quốc hội Cộng hòa Liên Bang Đức
Tại buổi tiếp, ông Uwe Karl Beckmeyer đánh giá cao tình hình phát triển kinh tế- xã hội của TPHCM trong thời gian qua. Ông cho biết: Đoàn Nghị sĩ
Quốc hội Cộng hòa Liên Bang Đức rất quan tâm đến vấn đề giao thông TPHCM, nhất là dự án ngôi nhà Đức và dự án metro số 2 tại TPHCM. Đoàn bày tỏ mong rằng TPHCM sẽ tạo điều kiện cho Đức thực hiện các dự án này trong thời gian tới.
 Ông nhấn mạnh: Đức luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cũng như hỗ trợ TPHCM về kỹ thuật, kiểm soát vé, đào tạo nguồn nhân lực cho tàu diện ngầm, góp phần tăng thêm tình hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam – Đức.
 Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Hữu Tín nhấn mạnh: mối quan hệ Việt Nam – Đức nói riêng và TPHCM – Đức nói chung luôn được tăng cường và chú trọng phát triển trên nhiều lĩnh vực, điển hình là đang thực hiện dự án Ngôi nhà Đức tại TPHCM và dự án tuyến metro tàu điện ngầm số 2.
 Phó Chủ tịch Nguyễn Hữu Tín cũng cho biết thêm: TPHCM xây dựng 6 tuyến metro tàu điện ngầm trong đề án phát triển đô thị của TP, hiện nay đang khởi công xây dựng tàu điện ngầm số 1, riêng tàu điện ngầm số 2 đang ở giai đoạn hoàn tất và sẽ khởi công vào cuối năm 2013; Phó Chủ tịch bày tỏ hy vọng: việc đưa tuyến tàu điện ngầm số 2 vào sử dụng sẽ góp phần đánh kể trong việc giảm ùn tắc giao thông trên địa bàn TP và mong rằng các nhà đầu tư của Đức có năng lực, kinh nghiệm, tư vấn tham gia xây dựng và chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về vận hành, đưa vào sử dụng tuyến metro số 2.
 * Cùng ngày, Bộ trưởng Thương mại và Đầu tư Đan Mạch Pia Olsen Dyhr đã bắt đầu chuyến thăm tại TPHCM trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 3 năm 2013. Mở đầu chuyến thăm, Bộ trưởng Thương mại và Đầu tư Đan Mạch Pia Olsen Dyhr đã có buổi nói chuyện với sinh viên Đại học Ngoại thương TPHCM và thăm Công ty Viedam, một liên doanh Đan Mạch -Việt Nam trong ngành nhựa đúc.
 Bộ trưởng cũng tham dự buổi ký văn bản hợp tác trong việc trao đổi sinh viên, du học, trao đổi chương trình học, giảng viên giữa Trường Đại học Thiết kế và Kinh doanh TEKO - thuộc khối Đại học VIA của Đan Mạch và Đại học Kỹ thuật Công nghệ TPHCM.
 Ngoài ra, Bộ trưởng Pia Olsen Dyhr cũng đã có chuyến thăm và tìm hiểu thực tế hoạt động và công tác điều trị tại Bệnh viện Y dược TPHCM về xúc tiến việc mở Trung tâm đào tạo về Đái tháo đường do Công ty Novo Nordisk, đơn vị đứng đầu thế giới về điều trị tiểu đường của Đan Mạch hỗ trợ xây dựng.
 Được biết, chuyến thăm của Bộ trưởng Pia Olsen Dyhr được xem như một bước quan trọng tiến tới việc hoàn tất Thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa Đan Mạch và Việt Nam dự định sẽ được ký kết nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong năm 2013.
 Xuân Hương
TPHCM và Úc đẩy mạnh tăng cường hợp tác
(HCM CityWeb) – Tối 6-3 tại trụ sở UBND TPHCM, Đại sứ Úc tại Việt Nam Hugh Borrowman đã đến chào xã giao Chủ tịch UBND TP Lê Hoàng Quân.

Chủ tịch UBND TPHCM Lê Hoàng Quân và Đại sứ Hugh Borrowman tại buổi tiếp
Tại buổi tiếp, Đại sứ Úc tại Việt Nam Hugh Borrowman khẳng định: mối quan hệ  Úc - Việt ngày càng được tăng cường và củng cố phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, thương mại và du lịch. Đại sứ tin tưởng: trong thời gian tới mối quan hệ giữa hai nước ngày càng mở rộng mở rộng, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là phòng chống tội phạm xuyên quốc gia. 
 Đại sứ bày tỏ mong muốn: TPHCM sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp Úc tìm hiểu môi trường cũng như hợp tác đầu tư tại TPHCM nhằm góp phần đưa mối quan hệ giữa hai nước ngày càng tốt đẹp.
 Đáp từ, Chủ tịch UBND TPHCM Lê Hoàng Quân đánh giá cao việc Úc hỗ trợ, chia sẻ và hợp tác của Úc với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nói chung và TPHCM nói riêng, nhất là chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ tại trường Đại học RMIT TPHCM và tại Úc.
 Chủ tịch bày tỏ tin tưởng: trong nhiệm kỳ công tác của Đại sứ sẽ tiếp tục có nhiều hoạt động thiết thực, tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai bên ngày càng có hiệu quả, nhất là về cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống nước sạch, văn hóa, xã hội cũng như hợp tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm về vận chuyển chất ma túy.
 * Tối cùng ngày, tại Nhà hát Lớn, TPHCM đã tổ chức kỷ niệm 40 thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Úc.
 Xuân Hương
“Gặp gỡ - trao đổi” giữa nữ lãnh đạo TP với nữ công nhân, viên chức, lao động
(HCM CityWeb) - Chiều 7-3, LĐLĐ TPHCM tổ chức buổi “Gặp gỡ - trao đổi” giữa nữ CNVCLĐ với nữ lãnh đạo TP. Các đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy TPHCM; Thân Thị Thư, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy; Nguyễn Thị Hồng, Phó Chủ tịch UBND TP; Võ Thị Dung, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban MTTQ TP và nhiều đồng chí lãnh đạo sở ban ngành đã tới dự, giải đáp những thắc mắc liên quan đến chính sách, chế độ do nữ CNVC-LĐ đặt ra tại buổi gặp.
Gặp gỡ trao đổi giữa lãnh đạo TP và nữ cán bộ công chức lao động TP
Cuộc gặp gỡ đã diễn ra thân mật, thẳng thắn. Nhiều nữ công nhân, lao động, viên chức đã mạnh dạn trình bày những bức xúc của mình, từ việc làm, chế độ lao động nữ, nhà ở xã hội đến các chiến lược quy hoạch, đào tạo, đề bạt cán bộ nữ, tuổi nghỉ hưu của lao động nữ trong các ngành đặc thù như y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học,. chính sách hỗ trợ xây nhà trẻ cho con công nhân đã được đặt ra tại buổi đối thoại. Các đại biểu đề nghị TP cần quan tâm đến việc cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ trong các doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng nhà ở xã hội phục vụ công nhân lao động, tuyên truyền nhiều hơn về bình đẳng giới và phòng tránh bạo hành trong gia đình. Ngoài ra, cần chú trọng bồi dưỡng tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân được học tập, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị.
Tiếp thu những ý kiến đầy tâm huyết của các nữ đại biểu, đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Bí thư Thành ủy bày tỏ sự trân trọng đối với những đóng góp quý báu của các chị em phụ nữ trong lao động sản xuất cũng như chăm sóc gia đình. Phó Bí thư Thành ủy đề nghị chị em phụ nữ tiếp tục phát huy những thành quả đạt được và tích cực trao dồi kiến thức nghiệp vụ và xã hội, để chứng tỏ bản lĩnh và sức mạnh của phụ nữ trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội không thua kém nam giới. Đồng thời yêu cầu Liên đoàn Lao động thành phố tiếp tục là cầu nối nắm bắt tâm tư tình cảm của giai cấp công nhân, giải quyết nguyện vọng của họ; đẩy mạnh hoạt động tuyến cơ sở, tuyên truyền nâng cao hiểu biết của công nhân lao động để giúp họ hiểu về quyền và nghĩa vụ của mình.
TPHCM: Kỷ niệm 103 năm ngày Quốc tế Phụ nữ và 1.973 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
(HCM CityWeb) - Ngày 8-3, tại Nhà hát TPHCM, Hội LHPN TP đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 103 năm ngày Quốc tế Phụ nữ và 1.973 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Chủ tịch UBND TP Lê Hoàng Quân (giữa) trao cờ thi đua đơn vị xuất sắc của Hội Liên hiệp Phụ nữ VN cho Hội Liên hiệp Phụ nữ TP.
Ông Lê Hoàng Quân, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND TP; bà Nguyễn Thị Thu Hà, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Thành ủy, các Mẹ Việt Nam anh hùng, lãnh đạo các sở, ban ngành và đông đảo cán bộ, hội viên Hội Phụ nữ TP đã đến dự lễ kỷ niệm.
Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ TP, bà Đinh Thị Bạch Mai đã ôn lại truyền thống, ý nghĩa lịch sử của phong trào phụ nữ quốc tế 8-3, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đồng thời nhấn mạnh vai trò của phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ TP nói riêng trong sự phát triển của đất nước. Trong năm qua, các cấp hội phụ nữ TP luôn chủ động sáng tạo trong việc triển khai thực hiện các hoạt động của hội và nỗ lực đoàn kết chia sẻ khó khăn vượt qua thử thách, góp sức cùng TP thực hiện các chương trình an sinh xã hội với những kết quả có giá trị nhiều mặt. Cụ thể, mô hình “Gia đình thi đua tiết kiệm điện” đã tiết kiệm được hơn 286 tỷ đồng; vận động 12.604 nữ chủ nhà trọ cam kết không tăng giá cho thuê phòng trọ nhằm trợ giúp khó khăn cho công nhân, người lao động nghèo; phối hợp các doanh nghiệp tổ chức các điểm bán hàng bình ổn hàng chất lượng cao, vận động 38.032 tiểu thương tích cực tham gia phong trào người kinh doanh mới, xây dựng mái ấm tình thương, tặng học bổng cho học sinh nghèo, tư vấn pháp lý miễn phí… Đặc biệt, năm 2012, toàn TP có 238.182 nữ cán bộ, công chức, viên chức đạt danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, các chị đã tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, khẳng định vị trí, vai trò, khả năng đóng góp to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thi đua thực hành tiết kiệm, tăng năng suất lao động tạo ra những sản phẩm có giá trị cho xã hội.
Thay mặt lãnh đạo TP, Chủ tịch UBND TP Lê Hoàng Quân chúc mừng phụ nữ TP và biểu dương những thành tích đạt được của phụ nữ các tầng lớp trong thời gian qua. Ông đề nghị các cấp Hội phụ nữ cần có những giải pháp quyết liệt, đồng bộ để cùng Đảng bộ chính quyền TP tạo chuyển biến rõ rệt trong thực hiện hiệu quả 6 chương trình đột phá góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của TP. Cụ thể, Hội phụ nữ cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ TP chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ngày càng trực tiếp tham gia, hiến kế và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; vận động tuyên truyền phụ nữ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, chăm lo tốt đời sống phụ nữ và trẻ em nghèo; tiếp tục là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với các tầng lớp phụ nữ nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường công tác tham mưu, đề xuất chính sách công tác phụ nữ…
Nhân dịp này, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã trao tặng Cờ Thi đua cho Hội Liên hiệp phụ nữ TP vì những thành tích xuất sắc Hội đã đạt được.
 
Minh Dung

Thành phố Hồ Chí Minh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố trực thuộc trung ương

Bến Bạch Đằng · UBND TP Hồ Chí Minh · Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn · Cảng Sài Gòn · Tòa nhà Bitexco Financial · Chợ Bến Thành · Nhà hát Thành phố
Biệt danh: Hòn ngọc Viễn Đông
Địa lý
Tọa độ: 10°46′10″B 106°40′55″Đ
Diện tích 2.095,6 km²
Dân số 2011
Tổng cộng 7.521.100 người[1]
Thành thị 6.250.700 người[2]
Nông thôn 1.270.400 người[3]
Mật độ 3.685 người/km²
Dân tộc Kinh, Hoa, Khmer[4]...
Múi giờ UTC+7
Hành chính
Quốc gia  Việt Nam
Vùng Đông Nam Bộ
Thành lập 1698: Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định
Tên khác Sài Gòn
Chính quyền
Chủ tịch UBND Lê Hoàng Quân
Chủ tịch HĐND Nguyễn Thị Quyết Tâm
Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải
Trụ sở UBND 86 Lê Thánh Tôn,Phường Bến Nghé, Quận 1
Đại biểu quốc hội 30
Phân chia hành chính 19 quận và 5 huyện
Mã hành chính VN-65
Mã bưu chính 70xxxx-76xxxx
Mã điện thoại 8
Biển số xe 50 → 59

Tọa độ: 10°46′10″B 106°40′55″Đ
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam.
Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887-1901. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, lãnh thổ Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419 người/km². Đến ngày 1/4/2010 theo số liệu của Tổng cục Thống kê, dân dố thành phố tăng lên 7.382.287 người. Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 10 triệu người[5]. Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước[6][7]. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Trong nội ô thành phố, đường sá trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống giao thông công cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất.

Mục lục

  • 1 Địa lý
    • 1.1 Vị trí, địa hình
    • 1.2 Địa chất, thủy văn
    • 1.3 Khí hậu, thời tiết
    • 1.4 Môi trường
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Thời kỳ hoang sơ
    • 2.2 Khai phá
    • 2.3 Từ Gia Định tới Sài Gòn
    • 2.4 Thủ đô Sài Gòn
    • 2.5 Thành phố Hồ Chí Minh
  • 3 Hành chính
  • 4 Kinh tế
  • 5 Xã hội
    • 5.1 Dân cư
    • 5.2 Y tế
    • 5.3 Giáo dục
  • 6 Giao thông vận tải
  • 7 Quy hoạch và kết cấu đô thị
  • 8 Du lịch
  • 9 Văn hóa
    • 9.1 Truyền thông
    • 9.2 Thể dục, thể thao
    • 9.3 Trung tâm văn hóa, giải trí
  • 10 Thành phố kết nghĩa
  • 11 Chú thích
  • 12 Liên kết ngoài

Địa lý

Vị trí, địa hình

Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang[8]. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế[9].
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Vùng cao nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét[10].
Thành phố Hồ Chí Minh gồm có bốn điểm cực:
  • Cực Bắc là xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi.
  • Cực Tây là xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi.
  • Cực Nam là xã Long Hòa, huyện Cần Giờ.
  • Cực Đông là xã Thạnh An, huyện Cần Giờ.

Địa chất, thủy văn 

Sông Sài Gòn đoạn qua trung tâm thành phố và bán đảo Thủ Thiêm

Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng: đất xám. Với hơn 45 nghìn hecta, tức khoảng 23,4% diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi... hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là "giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò[11].
Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Ðồng Nai Bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc, hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi...Hệ thống sông, kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành[12].
Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía Bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía Nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt, vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại Quận 12, các huyện Hóc Môn và Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng.[12]

Khí hậu, thời tiết

Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, Thành phố Hồ Chí Mình có nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Ðông Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía Bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại[13].
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió tín phong theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm không khí đạt 79,5%/năm[13].
Khí hậu Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Trung bình tối cao °C (°F) 32 (90) 33 (91) 34 (93) 34 (93) 33 (91) 32 (90) 31 (88) 32 (90) 31 (88) 31 (88) 30 (86) 31 (88)
Trung bình tối thấp °C (°F) 21 (70) 22 (72) 23 (73) 24 (75) 25 (77) 24 (75) 25 (77) 24 (75) 23 (73) 23 (73) 22 (72) 22 (72)
Lượng mưa mm (inch) 14 (0.6) 4 (0.2) 12 (0.5) 42 (1.7) 220 (8.7) 331 (13) 313 (12.3) 267 (10.5) 334 (13.1) 268 (10.6) 115 (4.5) 56 (2.2)
Nguồn: Đại sứ quán Việt Nam tại London[14] 26 tháng 2 năm 2008.

Môi trường

Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể, ý thức một số người dân lại quá kém trong nhận thức và bảo vệ môi trường chung... Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường quá lớn. Hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi còn rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động[15]. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m³/ngày[16]. Sông Sài Gòn, mức độ ô nhiễm vi sinh chủ yếu do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản gây ra vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần. Cho tới 2008, vẫn chưa có giải pháp cụ thể nào để chấm dứt tình trạng ô nhiễm này[17].
Lượng rác thải ở Thành phố Hồ Chí Minh lên tới 6.000 tấn/ngày, trong đó một phần lượng rác thải rắn không được thu gom hết. Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, so với năm 2006, sự ô nhiễm hữu cơ tăng 2 đến 4 lần. Các phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng, sản xuất... còn góp phần gây ô nhiễm không khí. Khu vực ngoại thành, đất cũng bị ô nhiễm do tồn đọng thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp gây nên[18].
Tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả trong mùa khô. Diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km2 với 85% điểm ngập nước nằm ở khu vực trung tâm. Thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng hơn[19].
Trước những bức xúc về thực trạng môi trường, Thành phố Hồ Chí Minh đang khẩn trương tìm mọi cách nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn. Việc trích ra một nguồn vốn lớn nhiều tỷ đồng đầu tư xây dựng hồ sinh học cải tạo nước kênh Ba Bò là một ví dụ[20].

Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh

Thời kỳ hoang sơ

Con người xuất hiện ở khu vực Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp. Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này.
Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư. Nhưng những cuộc tranh chấp đã khiến vùng đất Sài Gòn - Gia Định vẫn là miền đất hoang, vô chủ, địa bàn của vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện[21].

Khai phá

Sơ đồ Thành Bát Quái, công trình được xây dựng năm 1790
Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa[22].
Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này[23]. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quạn trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ ba cơ quan chính quyền này[23].
Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một nhóm người Hoa "phản Thanh phục Minh" tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý vào miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Nam Bộ được sát nhập vào cương vực Việt Nam[24].
Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Các công trình kênh đào Rạch Giá - Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành[25].

Từ Gia Định tới Sài Gòn

Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp, Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel, Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh"[26]. Tới năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, miền Nam được chia thành 5 trấn. Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế[27].
Chợ Bến Thành, Sài Gòn thời thuộc địa với những cột Morris đặc trưng của Pháp.
Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, người Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Theo thiết kế ban đầu, Sài Gòn bao gồm cả khu vực Chợ Lớn. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, chính quyền Pháp quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được thực hiện. Sau hai năm xây dựng và cải tạo, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn thay đổi[28].
Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục... Lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghèrạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên. Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định[28]. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn[27]. Đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp. Đến năm 1879 thì chính quyền cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay đúng ra là Ủy hội thành phố - Commission municipale).[29]
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, không chỉ hành chính mà còn kinh tế, văn hóa, giáo dục của cả Liên bang Đông Dương, được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông" ("the Pearl of the Far East") hoặc "Paris Phương Đông" ("Paris in the Orient")[cần dẫn nguồn].
Tính đến năm 1945 thì thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn có dân số là 500.000. Chiến tranh Đông Dương tác động cuộc di dân từ nông thôn lên thành thị khiến bốn năm sau, 1949 thì dân số tăng hơn gấp đôi thành 1.200.000 và sang năm 1954 với hàng trăm nghìn người di cư vào Nam từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số Sài Gòn leo cao, đạt 2.000.000.[30]

Thủ đô Sài Gòn

Tòa đô chánh Saigon 1966
Từ năm 1949, Sài Gòn đã là thủ đô của Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Sài Gòn trở thành thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của quốc gia non trẻ này với tên gọi chính thức "Thành đô Sài Gòn" (lưu ý, cách viết thông dụng là "Saigon"). Cũng năm 1954, thành phố tiếp nhận một lượng di dân mới từ miền Bắc Việt Nam (phần đông là người Công Giáo, còn gọi là dân Bắc Kỳ Công giáo) tập trung tại các khu vực như Xóm Mới- Gò Vấp, Bình An- Quận 8, và rải rác tại các quận khác. Với nghị định số 110-NV ngày 27 tháng 3 năm 1959 của Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ 6 quận, Sài Gòn được chia thành 8 quận với tổng cộng 45 phường.
Vào nửa cuối thập niên 1950, nhờ sự phát triển của kinh tế Việt Nam Cộng hòa và viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ và các nước đồng minh, Sài Gòn trở thành một thành phố hoa lệ được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông".[31] Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên[32]. Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Âu Mỹ. Thành phố trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí.
Nhưng tới những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, nền kinh tế miền Nam đi xuống do Mỹ cắt giảm viện trợ, nạn lạm phát trở nên nghiêm trọng. Hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc chiến gây ảnh hưởng xấu tới Sài Gòn. Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 đã khiến nhiều người dân rời bỏ thành phố ra nước ngoài định cư.[33] Cũng trong thời gian này, ước tính 700.000 người khác được vận động đi kinh tế mới; nền văn hóa có ảnh hưởng phương Tây bị lu mờ rồi tàn lụi.[34]

Thành phố Hồ Chí Minh

Từ 30/04/1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị xóa bỏ và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quản lý miền Nam. Thành Đô Sài Gòn, tỉnh Gia Định và 2 quận Củ Chi và Phú Hòa kế cận dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa, được hợp nhất thành 1 đơn vị hành chính gọi là thành phố Sài Gòn - Gia Định. Đầu năm 1976, Đảng bộ và Ủy ban Nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên của chủ tịch nước đầu tiên, Hồ Chí Minh[35].
Dinh Độc Lập, công trình tiêu biểu của Sài Gòn trước 1975
Với tổng diện tích 2.095 km², Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị lớn nhất Việt Nam. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại thành 8 quận. Bốn quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn[36].

Hành chính

Bài chi tiết: Tổ chức hành chính tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam. Về mặt hành chính, thành phố được chia thành 19 quận và 5 huyện. Trong đó có 322 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 259 phường, 58 xã và 5 thị trấn[37].
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh[38]
Tên Diện tích (km²) Dân số (người)
Các quận
Quận 1 8 187.435
Quận 2 50 140.621
Quận 3 5 188.945
Quận 4 4 183.261
Quận 5 4 174.154
Quận 6 7 253.474
Quận 7 36 274.828
Quận 8 19 418.961
Quận 9 114 263.486
Quận 10 6 232.450
Quận 11 5 232.536
Quận 12 53 427.083
Tên Diện tích (km²) Dân số (người)
Các quận
Thủ Đức 48 455.899
Tân Phú 16 407.924
Tân Bình 22 430.436
Phú Nhuận 5 175.175
Gò Vấp 20 548.145
Bình Thạnh 21 470.054
Bình Tân 52 595.335
Các huyện
Bình Chánh 253 447.291
Cần Giờ 704 70.697
Củ Chi 435 355.822
Hóc Môn 109 358.640
Nhà Bè 100 103.793


Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố
Về hành chính, Hội đồng Nhân dân thành phố, với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm, có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của thành phố. Đứng đầu Hội đồng Nhân dân gồm một Chủ tịch, một Phó chủ tịch và một Uỷ viên thường trực. Hội đồng Nhân dân chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội[39].
Hội đồng Nhân dân thành phố bầu nên Ủy ban Nhân dân, cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa trên địa bàn thành phố. Đứng đầu Ủy Ban Nhân dân gồm một Chủ tịch và các Phó chủ tịch. Các sở, ngành của Ủy ban Nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể, như y tế, giáo dục, đầu tư, tư pháp, tài chính. Tương tự, cấp quận, huyện cũng có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp thành phố. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố[40].
Bên cạnh Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại thành phố còn bầu ra Bí thư Thành ủy. Quyền hạn và trách nhiệm của Bí thư Thành ủy được quy định theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Vào năm 1995, hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 976 địa chỉ, trong đó 47 thuộc trung ương, 73 thuộc thành phố, 549 thuộc các quận, huyện và 307 thuộc cấp phường xã. Các tổ chức đoàn thể, chính trị bao gồm cấp trung ương và thành phố có 291 địa chỉ, các đơn vị sự nghiệp có 2.719 địa chỉ.

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm thương mại Diamond Plaza
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài[41]. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.966.400 lao động có độ tuổi từ 15 trở lên, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc[42]. Năm 2008, lực tượng lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trên địa bàng thành phố gồm có 3.856.500 người, năm 2009 là 3.868.500 người, năm 2010 đạt 3.909.100 người, nhưng đến 2011 còn số này đạt 4.000.900 người[43] Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2012, GDP đạt 404.720 tỷ đồng, tăng khoảng 8,7%. Năm 2012, GDP đạt khoảng 9,2%, trong đó khu vực dịch vụ đạt khoảng 10,8%, công nghiệp và xây dựng đạt khoảng 9,2%, nông lâm và thủy sản đạt 5%. GDP bình quân đầu người đạt 3.700 USD. Thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215.975 tỷ đồng, nếu không tính ghi thu chi là 207.000 tỷ đồng, đạt 92,42% dự toán, bằng 105,40% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa đạt 109.500 tỷ đồng, bằng 88,81% dự toán, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 70.000 tỷ đồng, bằng 88,72% dự toán[44]
Bên cạnh đó Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã trình Hội đồng nhân dân Thành phố 29 chỉ tiêu về kinh tế và xã hội trong năm 2013, đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người năm 2013. Trong đó có một số chỉ tiêu kinh tế gồm có GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD/người, tổng sản phẩm trong nước (GDP) dự kiến tăng 9,5-10%, tốc độ kim ngạch xuất khẩu là 13%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dự kiến khoảng 248.500-255.000 tỷ đồng, bằng 36-37% GDP, chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng của cả nước[45]...
Tòa nhà Bitexco Financial tại trung tâm Thành Phố vào ban đêm
Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%[46].
Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND[47]. Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007[48]. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD[49]. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, thành phố Hồ Chí Minh xếp ở vị trí thứ 20/63 tỉnh thành.[50]
Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội[51]. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ đồng[52].
Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến[53]. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền kinh tế[49]. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.

Xã hội

Lịch sử phát triển
dân số
Năm
Dân số
1995
4.640.400
1996
4.747.900
1997
4.852.300
1998
4.957.300
1999
5.073.100
2000
5.274.900
2001
5.454.000
2002
5.619.400
2003
5.809.100
2004
6.007.600
2005
6.230.900
2006
6.483.100
2007
6.725.300
2008
6.946.100
2009
7.196.100
2010
7.378.000
2011
7.521.100
Nguồn:[54]

Dân cư

Dân số năm 1929 là 123.890 người trong số đó có 12.100 người Pháp. Kể từ sau 1975, dân số Sài Gòn gia tăng nhanh, nhất là dân cư trú lậu không kiểm soát được, nên nhà cửa xây cất bửa bãi. Theo thống kê chính thức, dân số Sài Gòn năm 1975 là 3.498.120 người[55]. Tính đến năm 2011, dân số toàn thành phố Hồ Chí Minh đạt gần 7.521.100 người, với diện tích 2095,6 km2, mật độ dân số đạt 3589 người/km²[56] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 6.250.700 người[2], dân số sống tại nông thông đạt 1.270.400 người[3]. Dân số nam đạt 3.585.000 người[57], trong khi đó nữ đạt 3.936.100 người[58]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 7,4 ‰[59]
Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Trong khi một số quận như 4, 511 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km², thì huyện ngoại thành Cần Giờ có mật độ tương đối thấp 98 người/km²[60]. Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 2,5%[61]. Những năm gần đây dân số các quận trung tâm có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh, do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh đến sinh sống. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, con số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu[62].
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Toàn thành phố có 13 Tôn giáo khác nhau đạt 1.983.048 người, nhiều nhất là Phật giáo có 1.164.930 người, tiếp theo là Công Giáo đạt 745.283 người, đạo cao đài chiếm 31.633 người, Đạo Tin lành có 27.016 người, Hồi Giáo chiếm 6.580 người, Phật Giáo Hòa Hảo đạt 4.894 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.387 người. Còn lại các tôn giáo khác như Bà la môn có 395 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 298 người, Minh Sư Đạo có 283 người, đạo Bahá'í có 192 người, Bửu Sơn Kỳ Hương 89 người và 67 người theo Minh Lý Đạo[4].
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống[4]. Trong đó, nhiều nhất là người Kinh có 6.699.124 người, các dân tộc khác như người Hoa có 414.045 người, người Khmer có 24.268 người, người Chăm 7.819 người, người Tày có 4.514 người, người Mường 3.462 người, ít nhất là người La Hủ chỉ có 1 người[4].

Y tế

Bệnh viện tim Tâm Đức tại Quận 7
Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh của những quốc gia công nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh[63]. Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 71,19, con số ở nữ giới là 75,00[64].
Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002[65]. Toàn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh[66]. Thế nhưng mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố[67]. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ[63].
Sở Y tế thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng chất lượng phục vụ.

Giáo dục

Trụ sở Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Về mặt hành chính, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cơ sở giáo dục từ bậc mầm non tới phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, toàn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III[68]. Ngoài ra, theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành phố có 1.169 cơ sở công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục[69].
Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Trong khi đó, những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào bốn huyện ngoại thành Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ, một trường dạy Hán Nôm, bốn trường dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán, công ty giáo dục đầu tư[70].
Bài chi tiết: Danh sách trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (Trường đại học Sài Gòn và Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với 6 trường đại học thành viên[71]. Nhiều đại học lớn khác của thành phố như Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Kinh tế... đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia[72].
Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây nhưng giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không biết chữ vẫn còn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều trường học sinh phải học ba ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thành[72].

Giao thông vận tải

Bài chi tiết: Giao thông Thành phố Hồ Chí Minh
Bến Nhà Rồng, thương cảng cũ của Sài Gòn

Hầm Thủ Thiêm, hầm vượt sông dài nhất Đông Nam Á

Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm một tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông khoảng chiếm 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tại hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành khách[73]. Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là phi trường lớn nhất Việt Nam về cả diện tích và công suất nhà ga[74]. Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng[75]. Đến tháng 9 năm 2011 toàn thành phố có 480.473 xe ôtô và 4.883.753 xe môtô.[76].
Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận - do Xí nghiệp Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, tuyến Bắc - Nam và một vài đoạn đường chuyên dụng, hiện hầu như đã ngưng khai thác. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu, Gò Vấp. Do mạng lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6% khối lượng hành khách[73].
Giao thông đường bộ, thành phố có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Văn Thánh, Miền Tây, Chợ Lớn, Tân Bình - Tây Ninh, Ký Thủ Ôn. Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Cũng theo số liệu từ 1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm, nhiều nhất qua quốc lộ 1A[73].
Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có bốn cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò phục vụ giao thông hành khách. Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước. Cảng Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32 ha, tổng chiều dài cầu cảng 528 m, có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 - 20.000 tấn cập bến. Tuy năng lực của các cảng của Thành phố Hồ Chí Minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông gặp khó khăn. Tại hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị thiếu, vẫn phải bốc dỡ thủ công[73].
Giao thông trong nội ô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường xá nhỏ... khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. Thành phố có 239 cây cầu nhưng phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện giao thông. Không những thế, một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá. Trong khi đó, hệ thống đường trải nhựa còn lại cũng trở nên quá tải, cần sửa chữa.[73] Để giải quyết vấn đề giao thông đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh đang đầu tư cho hệ thống giao thông công cộng. Hiện nay thành phố có 3.250 xe buýt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 6,2% nhu cầu đi lại. Hệ thống xe buýt chưa đem lại hiệu quả cao, 65% tuyến trùng lặp[77]. Cùng mạng lưới xe buýt, dự án tàu điện ngầm Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đang tiến hành. Theo dự kiến, thành phố sẽ có bốn tuyến, tổng chiều dài 54 km, 6 đường rày và 22 nhà ga. Cuối 2010, hai tuyến đầu tiên sẽ đi vào hoạt động[78].

Quy hoạch và kết cấu đô thị

Theo thiết kế đô thị ban đầu của người Pháp vào năm 1860, thành phố Sài Gòn sẽ là nơi sinh sống cho 500.000 dân. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tăng qui mô của thành phố lên đến 3 triệu dân. Tuy nhiên hiện nay thành phố này có dân số kể cả số lượng khách vãng lai là 10 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải[79]. Sài Gòn từng là thành phố của cây xanh với không gian kiến trúc theo quy hoạch của Pháp trước đây đã thay đổi với việc thu hẹp không gian xanh để xây dựng nhà cửa, không gian kiến trúc thành phố này trở nên chật chội với nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất[80].
Công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém. Đến thời điểm đầu năm 2008 mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1/2000 được thực hiện. Quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực hiện xong[81]. Công tác xây quy họach và xây dựng đô thị mới vẫn mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp. Trong 10 năm gần đây, khu vực đô thị mới để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng, không phải là những quận, huyện được chính quyền địa phương thành lập[82].
Quy hoạch thành phố Hồ Chí Minh tính tới thời điểm 2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện.
Chiến lược quy hoạch của Thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành, đồng thời phát triển một số khu đô thị mới góp phần làm giảm mật độ dân số vốn đã quá cao như hiện nay.

Du lịch

Bài chi tiết: Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà hát lớn nằm tại khu vực trung tâm thành phố
Trong khoảng 4,3 triệu khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2007, 3 triệu khách đã tới thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tức khoảng 70%[49]. Năm 2007 cũng là năm thành phố có được bước tiến mạnh mẽ, lượng khách tăng khoảng 12% so với 2006, doanh thu ngành du lịch đạt 19.500 tỷ VND, tăng 20%[83]. Là một thành phố trẻ chỉ với 300 năm lịch sử, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được không ít công trình kiến trúc và sở hữu một nền văn hóa đa dạng.
Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh có 641 khách sạn với 17.646 phòng[84]. Phục vụ những khách cao cấp, thành phố có 11 khách sạn 5 sao, gồm: Caravelle, Sheraton, Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Legend, Renaissance Riverside, Windsor Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng[85]. Hầu hết các khách sạn này đều do những tập đoàn quốc tế như Accor, Furama, Mariot hay Sheraton quản lý và tập trung nhiều nhất tại Quận 1. Bên cạnh đó thành phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.621 phòng. Do sự phát triển của du lịch, số phòng cao cấp tại thành phố hiện đang thiếu trầm trọng. Mặc dù nhiều nhà đầu tư có ý định xây dựng tiếp các khách sạn sạng trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm. Theo dự kiến, đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10 nghìn phòng 4 hoặc 5 sao[85].
Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng, chủ yếu về đề tài lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Việt Nam về số lượng bảo tàng. Bảo tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với 30 nghìn hiện vật. Trong khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài[86] thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là Bảo tàng Hồ Chí Minh[87]. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một đô thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay có hơn một nghìn ngôi chùa, đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn các nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19 theo các phong cách Roman, Gothic. Nhà thờ lớn và nổi tiếng nhất của thành phố là nhà thờ Đức Bà, nằm ở Quận 1, hoàn thành năm 1880. Thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng, như Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát lớn, Bưu điện trung tâm, Bến Nhà Rồng... Dinh Độc Lập và Thư viện Khoa học Tổng hợp được xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Kiến trúc hiện đại ghi dấu ấn ở thành phố bằng các cao ốc, khách sạn, trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Saigon Trade Centre... Khu vực ngoài trung tâm, Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức cũng là những địa điểm du lịch quan trọng.
Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí. Bên cạnh các phòng trà ca nhạc, quán bar, vũ trường, sân khấu, thành phố có khá nhiều khu vui chơi như Công viên Đầm Sen, Suối Tiên, Thảo Cầm Viên. Các khu mua sắm, như Chợ Bến Thành, Diamond Plaza... hệ thống các nhà hàng, quán ăn cũng là một thế mạnh của du lịch thành phố.

Văn hóa

Truyền thông

Bưu điện trung tâm Thành phố
Là một trong hai trung tâm truyền thông của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 38 đơn vị báo chí thành phố và 113 văn phòng đại diện báo chí trung ương và các tỉnh, 3 nhà xuất bản của thành phố và 21 chi nhánh nhà xuất bản trung ương cùng mạng lưới thông tấn xã, các đài phát thanh, truyền hình địa phương và trung ương. Tổng cộng, trên địa bàn thành phố hiện nay có trên một nghìn người hoạt động trong lĩnh vực báo chí[88].
Trong lĩnh vực xuất bản, từ năm 1995 tới nay, ba nhà xuất bản của thành phố chiếm 1/7 số đầu sách xuất bản của cả Việt Nam. Ước tính khoảng 60 đến 70% số lượng sách của cả nước được phát hành tại Thành phố Hồ Chí Minh[88]. Những năm gần đây, nhiều trung tâm sách, cửa hàng sách hiện đại xuất hiện. Sài Gòn cũng là nơi ra đời tờ Gia Định báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên. Sài Gòn giải phóng, Thanh Niên, Tuổi Trẻ nằm trong số những tờ báo lớn nhất Việt Nam hiện nay. Ngoài ra còn có thể kể đến những báo và tạp chí lớn khác như Công an thành phố, Người lao động, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Thời trang, Thế giới mới, Kiến thức ngày nay... Ngoài báo chí tiếng Việt, Thành phố Hồ Chí Minh còn có Saigon Times daily, Thanhniennews bằng tiếng Anh, một ấn bản Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa.
Truyền hình đã xuất hiện tại Sài Gòn từ trước năm 1975, khi miền Bắc còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Ngay sau ngày chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Đài truyền hình Giải phóng đã bắt đầu phát sóng. Đến nay, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh – HTV trở thành đài truyền hình địa phương quan trọng bậc nhất Việt Nam. Ngoài sáu kênh phát trên sóng analogue, HTV còn một số kênh truyền hình kỹ thuật số và truyền hình cáp. Đối tượng chính của HTV là dân cư thành phố và một số tỉnh lân cận.

Thể dục, thể thao

Sân vận động Thống Nhất
Theo số liệu thống kê vào năm 1994, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 492,7 hecta dành cho hoạt động thể thao, tức trung bình 1,02 m²/người, trong đó nội thành là 0,26 m²/người. Với sự gia tăng dân số, con số thực tế hiện nay thấp hơn[89]. Vào năm 2005, toàn thành phố có 91 sân bóng đá, 86 bể bơi, 256 phòng tập thể thao[90]. Sân vận động lớn nhất thành phố hiện nay là sân Thống Nhất, với 25 nghìn chỗ ngồi. Sân vận động lớn thứ hai là sân Quân khu 7, nằm ở quận Tân Bình. Không chỉ dành cho thi đấu thể thao, đây còn là địa điểm tổ chức nhiều chương trình ca nhạc quy mô lớn. Một địa điểm thể thao quan trọng khác của thành phố là Trường đua Phú Thọ. Xuất hiện từ thời thuộc địa, Trường đua Phú Thọ hiện nay là trường đua ngựa duy nhất của Việt Nam. Sở Thể dục - Thể thao thành phố cũng quản lý một số câu lạc bộ như Phan Đình Phùng, Thanh Đa, Yết Kiêu.
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những câu lạc bộ thể thao giàu thành tích. Môn bóng đá, Câu lạc Thép Miền Nam - Cảng Sài Gòn, có sân nhà là sân Thống Nhất, từng 4 lần vô định V League. Đội Công an Thành phố cũng từng một lần vô địch vào năm 1995. Các bộ môn thể thao khác có thể kể đến Câu lạc bộ Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh môn bóng chuyền, các câu lạc bộ bóng rổ, cờ, điền kinh, bóng bàn... của thành phố.

Trung tâm văn hóa, giải trí


Khách sạn Park Hyatt Saigon tại Quận 1
Những lý do lịch sử và địa lý đã khiến Sài Gòn luôn là một thành phố đa dạng về văn hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của Sài Gòn đã thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Kinh, Hoa, Chăm... Thời kỳ thuộc địa rồi chiến tranh Việt Nam, Sài Gòn hấp thụ thêm nền văn hóa Âu Mỹ. Cho tới những thập niên gần đây, những hoạt động kinh tế, du lịch tiếp tục giúp thành phố có một nền văn hóa đa dạng hơn.
Với vai trò một trung tâm văn hóa của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 22 đơn vị nghệ thuật, 9 rạp hát, 11 bảo tàng, 22 rạp chiếu phim, 25 thư viện[91][92]. Hoạt động của ngành giải trí ở Thành phố Hồ Chí Minh nhộn nhịp hơn bất cứ thành phố nào ở Việt Nam. Hầu hết các hãng phim tư nhân lớn của Việt Nam hiện nay, như Phước Sang, Thiên Ngân, HKFilm, Việt Phim... đều có trụ sở chính ở Thành phố Hồ Chí Minh. Doanh thu các rạp của thành phố chiếm khoảng 60-70% doanh thu chiếu phim của cả nước[93]. Thành phố Hồ Chí Minh cũng sở hữu những sân khấu đa dạng. Nhà hát kịch Sân khấu nhỏ tại Quận 3 với những vở kịch thử nghiệm, những vở thư giãn ở Sân khấu Hài 135 Quận 1, Sân khấu kịch IDECAF với những vở lấy từ tuồng tích cổ hoặc tái hiện các danh tác trên thế giới. Lĩnh vực ca nhạc, Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường sôi động nhất, điểm đến của phần lớn các ca sĩ nổi tiếng. Ngoài những sân khấu lớn như Nhà hát Thành phố, Nhà hát Bến Thành, Nhà hát Hòa Bình, Sân khấu Trống Đồng... hoạt động âm nhạc hoạt động âm nhạc ở thành phố ở những phòng trà, quán cà phê đa dạng: Tiếng Tơ Đồng, M&T, Catinat, ATB, Bodega, Carmen...

Thành phố kết nghĩa

Đến thời điểm năm 2008, Thành phố Hồ Chí Minh kết nghĩa với các thành phố sau
  1. ^ “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 30 tháng 9 năm 2012.
  2. ^ a b Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  3. ^ a b Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  4. ^ a b c d Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng Cục Thống kê Việt Nam .
  5. ^ http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2013/1/309279/
  6. ^ http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Ban-hanh-Nghi-quyet-moi-cua-Bo-Chinh-tri-ve-phat-trien-TPHo-Chi-Minh/20127/142861.vgp
  7. ^ http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2012/7/293239/
  8. ^ “Giới thiệu khái quát về thành phố Hồ Chí Minh”. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Truy cập 23 tháng 12 năm 2012.
  9. ^ Thành phố với vẻ đẹp trời cho[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  10. ^ Ðịa hình[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  11. ^ Ðịa chất - đất đai[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  12. ^ a b Nguồn nước và thủy văn[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  13. ^ a b Khí hậu, thời tiết[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  14. ^ “Weather for Ho Chi Minh City”. Đại sứ quán Việt Nam tại London. Truy cập 26 tháng 2 năm 2008.
  15. ^ Cần một nghị quyết về môi trường Tin tức, truy cập 23 tháng 8 năm 2010.
  16. ^ Ô nhiễm môi trường và tình trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  17. ^ "Chưa có giải pháp cụ thể hạn chế ô nhiễm sông Sài Gòn[liên kết hỏng]". Báo Lao Động, 21 tháng 6, 2008.
  18. ^ Kiều Anh, "Thành phố Hồ Chí Minh: Đối mặt với ô nhiễm môi trường". Báo Khoa học và Phát triển, 25 tháng 7, 2008.
  19. ^ “Tp. Hồ Chí Minh: Giải pháp nào chống ngập nước?”. Báo Giao thông Vận tải (30 tháng 3 năm 2006).
  20. ^ Ô nhiễm môi trường tại TPHCM: Hiểm họa mới SGGP Online, truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2010.
  21. ^ Vùng Sài Gòn thời hoang sơ[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  22. ^ Con đường lập nghiệp của cha ông để có Sài Gòn - Gia Định[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  23. ^ a b Lập đồn thu thuế đầu tiên[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  24. ^ Lịch sử hình thành đất Sài Gòn[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  25. ^ Công cuộc khai hoang ở Nam Bộ vào thời các chúa Nguyễn[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  26. ^ Lê Quỳnh, Chuyển giao quân sự: Trường hợp nhà Nguyễn. BBC Việt ngữ, 19 tháng 2, 2004.
  27. ^ a b Niên biểu 300 năm Sài Gòn[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  28. ^ a b Sài Gòn biến đổi và hình thành một thành phố theo kiểu phương Tây[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  29. ^ Goodman, Allan E. Politics in War. Cambridge, MA: Havard University Press, 1973. tr 14
  30. ^ Pierre Brocheux và Daniel Hémery. Indochina, An Ambiguous Colonization 1858-1954. Berkeley, CA: University of California Press, 2009. tr 336-374.
  31. ^ Metzner, Edward. Reeducation in Postwar Vietnam. College Station, TX: Tẽas A&M University Press, 2001. tr 5-9.
  32. ^ BBCVietnamese.com | Diễn đàn | 'Kỳ tích xây dựng của thập kỷ'
  33. ^ Sài Gòn dưới thời Mỹ Ngụy[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  34. ^ Nigel Cawthorne, Chiến Tranh Việt Nam Được Và Mất, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm xuất bản 2007, tr. 396
  35. ^ Nghị quyết của Quốc hội năm 1976[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  36. ^ Sài Gòn xưa - Lịch sử vùng đất[liên kết hỏng] trên trang của Liên minh hợp tác xã Thành phố Hồ Chí Minh.
  37. ^ Đơn vị hành chính, Đất đai và Khí hậu Niên giám thống kê 2011, Tổng Cục Thống kê Việt Nam.
  38. ^ Dân số và mật độ dân số năm 2010 phân chia theo quận, huyện, Theo Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh.
  39. ^ Quy định của luật tổ chức Hội đồng Nhân dân trên trang của Hội đồng Nhân dân thành phố
  40. ^ Thông tin tổ chức hành chính Thành phố Hồ Chí Minh[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  41. ^ Số liệu 2005[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  42. ^ Nguồn lao động trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  43. ^ Dân số và Lao động Việt Nam Niên giám thống kê 2011, Tổng cụ thống kê.
  44. ^ TPHCM: Thời điểm “nước rút” hoàn thành kế hoạch 2012, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
  45. ^ TP HCM đặt mục tiêu thu nhập bình quân 4.000 USD mỗi người, Theo báo VnExpress .
  46. ^ Chỉ tiêu tổng hợp giai đoạn 2001 - 2006[liên kết hỏng], trên trang của Thành phố.
  47. ^ Trang[liên kết hỏng] của Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
  48. ^ Hàn Ni, "TPHCM dẫn đầu thu hút vốn FDI vì biết cách bứt phá". Sài Gòn giải phóng, 3 tháng 11, 2007.
  49. ^ a b c "TPHCM sau 1 năm gia nhập WTO - Vượt lên chính mình...[liên kết hỏng]", Trung tâm thông tin thương mại.
  50. ^ “PCI 2011: Lào Cai và Bắc Ninh 'vượt vũ môn' ngoạn mục”. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập 23 tháng 2 năm 2012.
  51. ^ Minh Anh, "Quy mô tiêu dùng 41,5 tỉ USD: Đầu kéo phát triển!". Tuổi Trẻ, 20 tháng 8, 2007.
  52. ^ Hình thành và phát triển, trên trang Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
  53. ^ Thành phố Hồ Chí Minh: Chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại, Mạng thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
  54. ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  55. ^ Văn bản liên kết, Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu.
  56. ^ Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  57. ^ Dân số nam trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  58. ^ Dân số nữ trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  59. ^ Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  60. ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam
  61. ^ Dân số lao động[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  62. ^ Dự báo số khách vãng lai có mặt trung bình mỗi ngày trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  63. ^ a b Y tế và chăm sóc sức khỏe trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  64. ^ Các chỉ tiêu về thể lực trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  65. ^ Số liệu nhân lực y tế năm 1996 - 2005 trên trang của Sở Y tế thành phố.
  66. ^ Thống kê về y tế năm 2005 trên trang của Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  67. ^ Mạng lưới y tế trên địa bàn TP.HCM trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  68. ^ Các thông kê về giáo dục năm 2008, trên trang của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  69. ^ Số trường, lớp, học sinh, giáo viên hệ mầm non... trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  70. ^ Danh sách các trường quốc tế trên trang Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh.
  71. ^ [1]
  72. ^ a b Giáo dục và đào tạo I trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  73. ^ a b c d e Giao thông vận tải I trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  74. ^ "Có nên xây sân bay quốc tế mới ở tỉnh Hải Dương", Tạp chí Hàng không, số tháng 10 năm 2007 của Cục hàng không dân dụng Việt Nam.
  75. ^ Vận tải - Bưu điện[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  76. ^ Ngô Lực Tải, Tìm lời giải chung cho giao thông ở Hà Nội và TP. HCM. Bộ Giao thông Vận tải, 29 tháng 5, 2008.
  77. ^ Duy Anh, Bình Minh, "TP.Hồ Chí Minh: Đi xe buýt lãng phí nhiều, hiệu quả thấp[liên kết hỏng]". Đời sống và Pháp luật, 14 tháng 9, 2007.
  78. ^ Phan Anh, "3 năm nữa TP HCM có tàu điện ngầm". VnExpress 30 tháng 4, 2007.
  79. ^ “Giải pháp giao thông TP.HCM: Chỉ là đối phó”. VietnamNet (27 tháng 11 năm 2007).
  80. ^ “Không gian đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Phần 2)”. Đài truyền hình Việt Nam (25 tháng 5 năm 2005).
  81. ^ “TP. Hồ Chí Minh – Ngán ngẩm với quy hoạch”. Báo Lao Động (8 tháng 1 năm 2008).[liên kết hỏng]
  82. ^ “Quy hoạch TP.HCM chưa xứng tầm”. Thư viện pháp luật (2 tháng 5 năm 2008).
  83. ^ Đổng Thị Kim Vui, "Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh: Chuyển biến rõ rệt sau 1 năm gia nhập WTO[liên kết hỏng]". Kinh tế và Đô thị, 13 tháng 12, 2007.
  84. ^ Khách sạn[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  85. ^ a b Văn Thân, "Thành phố Hồ Chí Minh: “Khát” đất xây khách sạn cao cấp!". Báo Công an Thành Phố Hồ Chí Minh, 21 tháng 2, 2008.
  86. ^ Lê Trần Phương, "Cảm nhận từ bảo tàng chứng tích chiến tranh[liên kết hỏng]". Báo Bình Dương, 1 tháng 11, 2006.
  87. ^ Hệ thống bảo tàng[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  88. ^ a b Báo chí - xuất bản[liên kết hỏng] trên trang của Thành phố.
  89. ^ Văn hóa thông tin - thể dục thể thao trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
  90. ^ Thể dục thể thao, trang của Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  91. ^ Văn hóa – Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh[liên kết hỏng], trên trang của Thành phố.
  92. ^ Văn hóa nghệ thuật, trên trang của Cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh.
  93. ^ Trần Đình, "Rạp chiếu phim ở Thành phố Hồ Chí Minh: Trở lại đúng vị trí “công nghệ giải trí”[liên kết hỏng]". Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, tháng 1, 2006.
  94. ^ Nguồn: Trang chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét