Nông nghiệp Lâm Đồng năm 2015 (19/02/13)
Tập
trung các nguồn lực, nâng cao chất lượng, mở rộng liên kết, đẩy mạnh
tiêu thụ nông sản cho nông dân là định hướng chính mà Sở NN-PTNT xác
định cho phát triển nông nghiệp - nông thôn trong giai đoạn 2010 - 2015
trình UBND tỉnh. Trong đó, riêng lĩnh vực nông nghiệp là tiếp tục phát
triển nông nghiệp công nghệ cao; thúc đẩy nhanh phát triển các doanh
nghiệp nông nghiệp, kinh tế trang trại, hợp tác xã trồng trọt - chăn
nuôi có trình độ chuyên môn hoá và thâm canh cao; gắn chặt các khâu
giống - công nghệ - thị trường trong quá trình sản xuất “…để nâng cao
hiệu quả kinh tế và giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích, cung cấp
nguyên liệu chất lượng cao cho công nghiệp và xuất khẩu, đưa Lâm Đồng
trở thành trung tâm ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao của cả nước, kể
cả công nghệ biến đổi gien” trước mắt là ở các giống cây - con địa
phương có ưu thế cạnh tranh cao như rau - hoa, bò sữa, cá nước lạnh...
Để
đạt mục tiêu này Lâm Đồng sẽ ổn định diện tích canh tác 280 ngàn ha cây
trồng, trong đó 60% diện tích được tưới nước chủ động; khâu làm đất
được cơ giới hoá 80% và 40% trong các khâu chăm sóc, bón phân, thu
hoạch; đặc biệt, để nâng cao giá trị trên 80% nông sản hàng hoá sẽ phải
được qua chế biến trước khi đưa ra thị trường…
Cụ
thể, trong các năm tới, các địa phương của tỉnh như Đà Lạt, Đơn Dương,
Đức Trọng và Lạc Dương sẽ tập trung đầu tư ứng dụng tiến bộ KHKT vào
thâm canh từ 45 - 48 ngàn ha rau (có 2.200 ha khoai tây) và 3.800 ha hoa
với các giống rau hoa ôn đới cao cấp, trong đó 20% diện tích rau được
sản xuất theo nông nghiệp công nghệ cao và 75% diện tích và sản lượng
rau đạt tiêu chuẩn an toàn. Cây chè (25 ngàn ha) và cây cà phê (135 ngàn
ha) sẽ không được mở rộng diện tích mà được tiếp tục đầu tư theo hướng
xây dựng các vùng nông sản nguyên liệu an toàn quy mô lớn phục vụ công
nghiệp chế biến.
Qua
đó, sẽ có khoảng 4.500 ha chè chất lượng cao và chè cao sản được thâm
canh theo quy trình Việt Gap; 20% diện tích cà phê hiện có sẽ được thay
thế bằng giống cà phê chè, công nghệ ghép cải tạo diện tích cà phê già
cỗi bằng các dòng cà phê vô tính có chọn lọc cũng được chú trọng thông
qua việc thực hiện Dự án Nâng cao chất lượng cà phê nhằm đưa bình quân
năng suất cà phê của tỉnh lên 3 tấn/ ha - tăng hơn hiện nay khoảng 15 -
20%. Một loại cây địa phương có thế mạnh nhưng đang bị mai một là dâu
tằm cũng sẽ được đầu tư khôi phục (với diện tích dự kiến gần 8.300 ha)
cùng với phát triển các giống cây trồng mới nhưng đã khẳng định được
hiệu quả kinh tế cao tại địa bàn như ca cao (5.000 ha), cao su (26 ngàn
ha), cây ăn quả (12 ngàn ha với các giống măng cụt, mít nghệ, chôm chôm
Thái, bơ ghép, chuối Laba và chanh dây - không mở rộng diện tích hồng và
mận). Thực hiện mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực tại chỗ, các địa
bàn trọng điểm sản xuất lương thực như Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Huoai, Đơn
Dương, Đức Trọng với 36 ngàn ha lúa bằng thâm canh các giống lúa lai,
lúa thuần chủng, quản lý tốt dịch hại kết hợp với nâng cấp các công
trình thuỷ lợi… để đưa năng suất lên trên 50 tạ/ha/vụ; duy trì thâm canh
19 ngàn ha ngô lai năng suất cao ở những vùng chưa chủ động nước tưới.
Trên
lĩnh vực chăn nuôi, phấn đấu tăng tỷ trọng chăn nuôi trong toàn ngành
từ 14% hiện nay lên 26% vào năm 2015; giá trị sản xuất chăn nuôi tăng
bình quân 12 - 13%/ năm với các giống vật nuôi chính như bò sữa, bò
thịt, heo nạc, gà công nghiệp và cá nước lạnh. Các biện pháp để phát
triển chăn nuôi chủ yếu là đầu tư cho chăn nuôi tập trung và sản xuất
hàng hoá lớn theo phương pháp công nghiệp với quy mô phù hợp và an toàn
dịch bệnh, trong đó 80% cơ sở chăn nuôi tập trung phải được chứng nhận
bảo đảm an toàn thực phẩm theo Việt Gap, 90% cơ sở giết mổ và chế biến
sản phẩm chăn nuôi áp dụng tiêu chuẩn GMP, HACCP…
Nguồn: Baolamdong online
|
Tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên thứ ba và cao nhất của vùng đất Tây Nguyên, cao nguyên Lâm Viên - Di Linh (cao 1.500m so với mặt biển), 70% diện tích là núi rừng, phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, phía đông nam giáp các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận, phía tây giáp các tỉnh Bình Phước và Đồng Nai.
Phía bắc tỉnh là núi đi từ đông sang tây, có đỉnh Yang Bông cao 1.749m. Sát ngay Đà Lạt, có các đỉnh Đan Sê Na cao 1.950m, Lang Bian cao 2.163m, Hòn Nga cao 1.948m. Giữa hai dãy núi này là nơi bắt nguồn của các dòng sông Đa Dung chảy vào Đồng Nai, sông Cái chảy ra Nha Trang. Phía nam của hai dãy núi là cao nguyên Lang Biang, trong đó có Tp. Đà Lạt ở độ cao 1.475m. Phía đông nam tỉnh có cao nguyên nhỏ Di Linh cao 1.010m, khá bằng phẳng và đông dân cư, là nơi đầu nguồn của sông La Ngà chảy vào Đồng Nai.Đà Lạt được mệnh danh là "thành phố của mùa Xuân". Ở đây rất mát mẻ, nhiệt độ trung bình cao nhất trong ngày 24ºC và nhiệt độ trung bình thấp nhất trong ngày 15ºC. Lượng mưa trung bình năm 1.755mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11. Có nắng trong tất cả các mùa. Nhờ khí hậu đó, cả thành phố Đà Lạt như một vườn hoa trăm hương, ngàn sắc suốt quanh năm.
Từ Tp. Hồ Chí Minh, đi ô tô theo quốc lộ 20 chừng 300km là đến Đà Lạt. Con đường sẽ đưa du khách lên cao dần, cao dần và khi chạm vào Đà Lạt ở thác Prenn thì trước mặt du khách đã là ngút ngàn rừng thông hai lá, ba lá. Đi sâu vào thành phố Đà Lạt, du khách sẽ khám phá một "bảo tàng" của các thác nước, những hồ đẹp, thung lũng hoa và đồi cỏ.
Nếu đi theo đường 27 từ Phan Rang ngược sông Dinh lên, sau khi vượt qua những khu di tích lịch sử của nước Chămpa xưa và những cánh đồng khô ráo quanh năm, chúng ta đứng trên đèo Ngoạn Mục với bức tranh thiên nhiên hùng vĩ trước mắt.
Thành phố Đà Lạt hơn 100 năm tuổi (phát hiện 1893), đang trở thành một trong những địa danh du lịch hấp dẫn nhất đối với du khách trong và ngoài nước, một thành phố nghỉ mát lâu đời ở nước ta. Đà Lạt nổi tiếng về hồ, về thác nước và rừng thông. Những hồ đẹp ở Đà Lạt là hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Đa Thiện, hồ Vạn Kiếp, hồ Mê Linh. Những hồ này nằm ngay trong thành phố, tên thơ mộng như cảnh hồ thơ mộng, mỗi hồ gắn với một truyền thuyết xa xưa.
Du khách đến Đà Lạt vừa thăm viếng, vừa thưởng thức những sản phẩm Đà Lạt bao gồm nhiều loại trái cây: hồng, mận, đào, bơ; nhiều món ăn dân tộc độc đáo và các hàng lưu niệm của riêng vùng Đà Lạt.
Vẻ đẹp của Đà Lạt còn được ngợi ca nhiều và hấp dẫn du khách bởi hàng trăm, ngàn loại hoa, loại phong lan độc đáo, hoặc được sản sinh riêng trên mảnh đất này, hoặc lấy giống từ nhiều nơi như: Pháp, Anh, Hà Lan, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ, Italy,...như hoa hồng, hoa bất tử, hoa đỗ quyên, hoa xác pháo, hoa tư tưởng, hoa trà mi, mi mô da, mai anh đào, thủy tiên trắng...
Khách sạn du lịch đầu tiên ở Đà Lạt được xây dựng từ năm 1907, đó là ngôi nhà gỗ mang tên khách sạn Hồ (Hôtel du Lac). Ngày nay, đến Đà Lạt du khách sẽ cảm nhận có một nét kiến trúc rất nên thơ, lộng lẫy mà kín đáo qua ngôi biệt thự ẩn mình trong cây lá hoặc rực rỡ bởi được phủ lên cả một rừng hoa.
Cộng đồng dân cư Đà Lạt là một sự hòa nhập hết sức độc đáo của dân tộc từ các vùng Bắc, Trung Nam. Cả tỉnh có trên 20 tộc người, đông nhất là người Việt, sau đó là M’Nông, Mạ, Cơ Ho...Người dân ở quanh vùng Đà Lạt và Di Linh trồng rau và hoa cung cấp cho các tỉnh Nam Bộ.
Đà Lạt mang đậm trong mình bản sắc văn hóa Tây Nguyên đẹp như huyền thoại. Những người dân hiền lành sống bằng nghề làm rẫy, làm vườn, trồng cà phê, chè, chăn nuôi gia súc...Vào những ngày hội làng, ngày vui của gia đình, du khách sẽ được xem họ múa, hát, chơi nhạc bằng những nhạc cụ độc đáo mà âm thanh của nó nghe như tiếng gió hú, tiếng thác chảy trên ghềnh đá. Thiên nhiên tươi đẹp đã tạo nên những mẫu người Đà Lạt có phong cách đáng yêu, hiền hòa, thanh lịch và mến khách.
Đà Lạt
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đà Lạt
|
||
---|---|---|
Thành phố trực thuộc tỉnh | ||
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt |
||
Biệt danh: Thành phố ngàn hoa, Thành phố ngàn thông, Thành phố sương mù, Tiểu Paris. | ||
Địa lý | ||
Tọa độ: | ||
Diện tích | 394,64 km² [1] | |
Dân số năm 2011 | ||
Tổng cộng | 211.696 người [1] | |
Thành thị | 191.803 người [2] | |
Mật độ | 536 người/km² | |
Độ cao | 1.500 mét | |
|
||
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Tỉnh | Lâm Đồng | |
Thành lập | 1893: Bác sỹ Alexandre Yersin tới cao nguyên Lâm Viên 1916: Triều đình Huế thông báo Dụ thành lập thị tứ Đà Lạt |
|
Đô thị loại I | 23 tháng 3 năm 2009 | |
Chính quyền | ||
Chủ tịch UBND | Võ Ngọc Hiệp | |
Bí thư Thành ủy | Đoàn Văn Việt | |
Trụ sở UBND | 3 đường Trần Hưng Đạo | |
Phân chia hành chính |
|
|
Thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn cư trú của những cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng dành cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer đã quyết định chọn cao nguyên Lâm Viên theo đề nghị của bác sỹ Alexandre Yersin, người từng thám hiểm tới nơi đây vào năm 1893. Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ một địa điểm hoang vu, những người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương khi đó. Trải qua những khoảng thời gian thăng trầm của hai cuộc chiến tranh cùng giai đoạn khó khăn những thập niên 1970–1980, Đà Lạt ngày nay là một thành phố 211 ngàn dân, đô thị loại I trực thuộc tỉnh, giữ vai trò trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Lâm Đồng.
Với độ cao 1.500 mét so với mực nước biển và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng bao quanh, Đà Lạt thừa hưởng một khí hậu miền núi ôn hòa và dịu mát quanh năm. Lịch sử hơn một thế kỷ cũng để lại cho thành phố một di sản kiến trúc giá trị, được ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ 20. Những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú giúp Đà Lạt trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam, mỗi năm thu hút hàng triệu du khách tới thăm viếng và nghỉ dưỡng. Đà Lạt còn là một trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học, một thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hàng trăm ngôi chùa, nhà thờ, tu viện... một vùng nông nghiệp trù phú đặc biệt với những sản phẩm rau và hoa. Nhờ khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và di sản kiến trúc phong phú, Đà Lạt còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như “Thành phố mù sương”, “Thành phố ngàn thông”, “Thành phố ngàn hoa”, “Xứ hoa Anh Đào” hay “Tiểu Paris”.
Mặc dù là một đô thị du lịch nổi tiếng, nhưng Đà Lạt lại là một thành phố thiếu vắng các địa điểm văn hóa, giải trí đa dạng. Quá trình đô thị hóa ồ ạt khiến thành phố ngày nay phải chịu nhiều hệ lụy. Nhiều cánh rừng thông dần biến mất, thay thế bởi các công trình xây dựng hoặc những vùng canh tác nông nghiệp. Do không được bảo vệ tốt, không ít danh thắng và di tích của thành phố rơi vào tình trạng hoang tàn, đổ nát. Sự phát triển thiếu quy hoạch trong những thập niên gần đây khiến kiến trúc đô thị Đà Lạt chịu nhiều biến dạng và trở nên nhem nhuốc. Trong khắp thành phố, nhiều ngôi biệt thự cùng không ít những công trình kiến trúc chịu sự tàn phá của thời gian mà không được bảo tồn, gìn giữ.
Mục lục
|
Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch, tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, dòng suối Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng bắc – nam, trong đó đoạn từ khoảng hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch.[3] Theo ngôn ngữ của người Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa nước của người Lát, hay suối của người Lát. Trong một bài phỏng vấn đăng trên tạp chí Revue Indochine tháng 4 năm 1944, công sứ Cunhac, một trong những người tham gia xây dựng thành phố từ ngày đầu, đã nói: “Cho mãi tới những năm sau này, khung cảnh ban sơ vẫn không có gì thay đổi. Ở tại chỗ của cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lát đã chảy qua và người ta đã gọi suối này là Đà Lạt”.[4] Vào thời kỳ đầu, các bản đồ cũng như sách báo thường chỉ nhắc đến địa danh Dankia hay Lang Biang. Nhưng sau khi Đà Lạt được chọn làm nơi nghỉ dưỡng thay vì Dankia, và đặc biệt từ khi nơi đây trở thành một thành phố, địa danh Đà Lạt mới xuất hiện thường xuyên.[4]
Những người có công kiến thiết thành phố còn sáng tạo một câu cách ngôn khéo léo bằng tiếng La Tinh: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem, có nghĩa Cho người này nguồn vui, cho kẻ khác sức khỏe. Tác giả André Morval đã viết câu cách ngôn chiết tự này ở đầu một bài báo nhan đề Dalat: Cité de la Jeunesse với nội dung: “Những người khai sinh ra nơi nghỉ mát trên miền núi danh tiếng của chúng ta đã xác định một cách rất hợp lý những nét hấp dẫn và những đặc tính tốt bằng một câu cách ngôn ghép chữ đầu rất khéo léo để liền theo huy hiệu thành phố”.[5] Năm 1937, khi xây dựng chợ Đà Lạt mới thay cho ngôi chợ cũ bằng gỗ bị cháy, người ta đã đề dòng chữ Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem trên tường đầu hồi của công trình, phía trên là huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc.[6] Với khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và những di sản kiến trúc Pháp phong phú, Đà Lạt còn được gọi bằng nhiều cái tên khác như “Thành phố mù sương”, “Thành phố ngàn thông”, “Thành phố ngàn hoa”, “Xứ hoa Anh Đào” hay “Tiểu Paris”.[7]
Lịch sử
Huy hiệu Đà Lạt.
Dự án xây dựng Đà Lạt bị gián đoạn khi Toàn quyền Paul Doumer trở về Pháp vào năm 1902.[14] Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian tiếp theo, nhiều đoàn khảo sát vẫn được gửi đến cao nguyên Lâm Viên để nghiên cứu và các tuyến đường giao thông tới Đà Lạt cũng dần hình thành. Giữa thập niên 1910, Thế chiến thứ nhất bùng nổ khiến nhiều người Pháp không thể về quê hương trong những kỳ nghỉ, Đà Lạt dần trở thành điểm đến của họ.[15] Ngày 20 tháng 4 năm 1916, Hội đồng nhiếp chính của vua Duy Tân thông báo Dụ thành lập thị tứ Đà Lạt.[16] Trong vòng ba mươi năm, từ một địa điểm hoang vu, một thành phố đã hình thành với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng, các trường học, bệnh viện, khách sạn, công sở và dinh thự.[17] Tới thập niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, “thủ đô mùa hè” của toàn Liên bang Đông Dương.[18] Trong những năm chiến tranh, thành phố vẫn giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của miền Nam Việt Nam. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văn hóa và các công trình kiến trúc tiếp tục ra đời.[19] Nhưng kể từ năm 1964, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt, việc phát triển đô thị ít được coi trọng, thay vào đó là sự xuất hiện của những công trình phục vụ cho mục đích quân sự.[20]
Sau chiến tranh, Đà Lạt tiếp tục bước vào một thời kỳ khó khăn khi phải đối mặt với vấn đề lương thực và thực phẩm, việc xây dựng phát triển thành phố vì thế không còn được chú trọng.[21][22] Diện tích canh tác nông nghiệp mở rộng đã ảnh hưởng nhiều tới cảnh quan thiên nhiên và môi sinh của thành phố.[23][24] Du lịch Đà Lạt giai đoạn này cũng trầm lắng bởi sự khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam.[25] Từ cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, thành phố dần phát triển trở lại với làn sóng khách du lịch tìm tới ngày một đông và hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp tục được xây dựng.[26] Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại II và ngày 23 tháng 3 năm 2009, Đà Lạt chính thức trở thành thành phố đô thị loại I.[24][27]
Địa lý
Địa hình
Quang cảnh Đà Lạt với những dãy núi phía xa bao bọc khu vực trung tâm thành phố.
Địa hình Đà Lạt được phân thành hai dạng rõ rệt: địa hình núi và địa hình bình nguyên trên núi.[30] Địa hình núi phân bố xung quanh vùng cao nguyên trung tâm thành phố. Các dãy núi cao khoảng 1.700 mét tạo thành một vành đai chắn gió che cho khu vực lòng chảo trung tâm.[31] Từ thành phố nhìn về hướng bắc, dãy Lang Biang như một tường thành theo hướng đông bắc – tây nam, kéo dài từ suối Đạ Sar đến hồ Dankia. Hai đỉnh cao nhất của dãy núi này có độ cao 2.167 mét và 2.064 mét.[30] Án ngữ phía đông và đông nam Đà Lạt là hai dãy Bi Doup và Cho Proline. Về phía nam, địa hình núi chuyển tiếp sang bậc địa hình thấp hơn, đặc trưng là khu vực đèo Prenn với các dãy núi cao xen kẽ những thung lũng sâu.[32] Trung tâm Đà Lạt như một lòng chảo hình bầu dục dọc theo hướng bắc – nam với chiều dài khoảng 18 km, chiều rộng khoảng 12 km. Những dãy đồi đỉnh tròn ở đây có độ cao tương đối đồng đều nhau, sườn thoải về hướng hồ Xuân Hương và dần cao về phía các vùng núi bao quanh.[32] Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là dinh Nguyễn Hữu Hào trong Bảo tàng Lâm Đồng với độ cao 1.532 mét, còn điểm thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương, độ cao 1.398 mét.[33]
Trên địa phận thành phố Đà Lạt, xen giữa vùng đồi thấp trung tâm thành phố và các dãy núi bao quanh, có thể thấy hơn 20 dòng suối có chiều dài trên 4 km, thuộc các hệ thống suối Cam Ly, Đa Tam và hệ thống sông Đa Nhim. Đây đều là những con suối đầu nguồn thuộc lưu vực sông Đồng Nai, trong đó hơn một nửa là các con suối cạn, chỉ chảy vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô.[34] Suối Cam Ly dài 64,1 km, bắt nguồn từ huyện Lạc Dương, chảy theo hướng bắc – nam và đổ vào hồ Xuân Hương. Đây chính là hệ thống suối lớn nhất Đà Lạt, có vai trò quan trọng trong việc tạo cảnh quan cho khu vực đô thị trung tâm.[35] Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố của hồ và thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ phân bố rải rác, phần nhiều là các hồ nhân tạo.[36] Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, rộng khoảng 38 ha, được tạo lập năm 1919 trong quá trình xây dựng Đà Lạt.[37] Trước năm 1986, hồ Xuân Hương cùng hồ Chiến Thắng và hồ Than Thở là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố. Ngày nay, nguồn nước sinh hoạt được dẫn về từ hồ Dankia thuộc huyện Lạc Dương, cách Đà Lạt khoảng 17 km.[36]
Khí hậu
Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, một trong những biểu tượng của Đà Lạt.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới xavan, Đà Lạt có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa trùng với mùa gió mùa tây nam, bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10. Còn mùa khô trùng với mùa gió mùa đông bắc, kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Vào mùa khô, Đà Lạt chịu ảnh hưởng của khối không khí biển Đông, mang lại thời tiết nắng ấm, ít mây, không mưa, nhiệt độ hạ thấp về ban đêm và biên độ nhiệt lớn. Trong những tháng mùa mưa, gió mùa đông bắc hầu như không còn ảnh hưởng đến Đà Lạt, thay thế bởi khối không khí xích đạo từ phía nam tràn lên phía bắc. Gió mùa tây nam mang lại nguồn ẩm chủ yếu cho những trận mưa lớn và những đợt mưa kéo dài nhiều ngày.[38] Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của khối không khí nhiệt đới Thái Bình Dương, trong mùa mưa vẫn có những thời kỳ thời tiết tạnh ráo.[39]
Nhiệt độ trung bình tháng ở Đà Lạt không bao giờ vượt quá 20°C, ngay cả trong những tháng nóng nhất. Tuy vậy, Đà Lạt cũng không phải là nơi có nhiệt độ trung bình tháng thấp nếu so với các tỉnh thành phố miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới. Trong những tháng mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng vẫn trên 14°C.[39] Theo số liệu thống kê từ năm 1964 tới năm 1998, nhiệt độ trung bình năm ở Đà Lạt là 17,9°C, trong đó năm 1973 có nhiệt độ trung bình cao nhất lên đến 18,5°C, còn năm 1967 nhiệt độ trung bình xuống thấp nhất, 17,4°C.[39] Nếu so sánh với Sa Pa, thị trấn nghỉ dưỡng ở miền Bắc ở độ cao 1.581 mét so với mặt biển và nằm trong vùng cận nhiệt đới, thì nhiệt độ trung bình ở Đà Lạt cao hơn 2,6°C,[40], và nếu xét riêng các tháng mùa đông thì nhiệt độ trung bình của Đà Lạt cao hơn Sapa đến 10°C (tuy nhiên về mùa hè Sapa chỉ lạnh hơn Đà Lạt không đáng kể).
Biên độ nhiệt độ ngày đêm ở Đà Lạt rất lớn, trung bình năm đạt 11°C, cao nhất trong những tháng mùa khô, lên tới 13 – 14°C, và thấp nhất trong những tháng mùa mưa, chỉ khoảng 6 – 7°C. Ngược lại, biên độ nhiệt trung bình giữa các tháng trong năm lại nhỏ, tháng ấm nhất và tháng lạnh nhất cũng chỉ chênh lệnh 3,5°C.[41] Độ dài ngày trong các mùa ở Đà Lạt không có sự chênh lệch lớn, trung bình khoảng từ 11 đến ít hơn 12 giờ vào mùa đông và trên 12 giờ vào mùa hè.[38] Tổng số giờ nắng trong năm ở đây tương đối cao, khoảng 2.258 giờ một năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 12, 1, 2 và 3 của mùa khô.[42] Tổng lượng bức xạ thu nhập ở Đà Lạt khoảng 140 kCalo/cm²/năm, nhiều nhất vào tháng 4 và ít nhất vào tháng 8.[38] Nếu so với các vùng lân cận, lượng bức xạ Mặt Trời của Đà Lạt không cao, nhưng đây là nguồn năng lượng chủ yếu cho các quá trình trao đổi nhiệt, mang lại nền nhiệt độ thấp và tương đối ôn hòa.[43]
Mùa mưa ở Đà Lạt thường bắt đầu vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 và kết thúc vào khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11. Tuy hàng năm, thời điểm bắt đầu và kết thúc của mùa mưa có thể thay đổi, nhưng mùa mưa ở đây thường kéo dài khoảng hơn 6 tháng.[44] Trung bình, một năm Đà Lạt có 161 ngày mưa với lượng mưa 1.739 mm, tập trung nhiều nhất vào ba tháng 7, 9 và 10, ba tháng có sự hoạt động mạnh của trường gió mùa tây nam. Nếu lấy trung bình từ tháng 5 tới tháng 10, tổng lượng mưa trong mùa mưa ở Đà Lạt chiếm đến gần 80% lượng mưa của cả năm.[44] So với vùng đồng bằng, Đà Lạt có số ngày mưa trong năm nhiều hơn, nhưng lượng mưa lại thấp hơn.[45] Ở Đà Lạt còn có một hiện tượng thời tiết đáng chú ý khác là sương mù, trung hình 80 đến 85 ngày trong một năm, nhưng xuất hiện nhiều nhất vào khoảng thời gian từ tháng 2 tới tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 10. Phổ biến hơn cả là loại sương mù bức xạ được hình thành khi mặt đất bị lạnh đi nhiều do bức xạ vào lúc trời quang, lặng gió. Sương mù dày ít xảy ra hơn, thường gặp vào tháng 9 và tháng 10, trung bình mỗi tháng có tới 4 đến 5 ngày sương mù dày.[34]
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trung bình tối cao °C | 22.3 | 24.0 | 25.0 | 25.2 | 24.5 | 23.4 | 22.8 | 22.5 | 22.8 | 22.5 | 21.7 | 21.4 | 20,6 |
Trung bình tối thấp °C | 11.3 | 11.7 | 12.6 | 14.4 | 16.0 | 16.3 | 16.0 | 16.1 | 15.8 | 15.1 | 14.3 | 12.8 | 14,3 |
Lượng mưa mm | 11 | 24 | 62 | 170 | 191 | 213 | 229 | 214 | 282 | 239 | 97 | 36 | 1.739 |
Dân cư
Lịch sử dân số Đà Lạt | ||
---|---|---|
Năm | Dân số | |
1923 | 1.500 | |
1935 | 5.500 | |
1938 | 9.000 | |
1940 | 13.000 | |
1942 | 20.000 | |
1944 | 25.500 | |
1946 | 5.200 | |
1948 | 18.513 | |
1952 | 25.041 | |
1956 | 58.958 | |
1965 | 73.000 | |
1970 | 89.656 | |
1975 | 85.833 | |
1981 | 98.437 | |
1990 | 120.261 | |
1999 | 160.663 | |
2009 | 206.105 | |
2011 | 211.696 | |
Nguồn: Địa chí Đà Lạt [47][48] |
Những biến cố của cuộc chiến tranh Đông Dương ảnh hưởng mạnh mẽ tới dân số Đà Lạt. Thời kỳ này rất nhiều cư dân của thành phố lánh về Cầu Đất, Đơn Dương, Ninh Thuận, Bình Thuận hoặc trở về quê hương cũ. Vào năm 1946, dân số Đà Lạt chỉ còn khoảng 5.200 người, khiến người Pháp gọi nơi đây là “thành phố quạnh hiu”.[51] Nhưng khoảng thời gian tiếp theo, khi Đà Lạt một lần nữa thuộc về người Pháp, các hoạt động kinh tế, xã hội dần ổn định trở lại. Vào cuối năm 1952, dân số thành phố đạt 25.041 người, trong đó có 1.217 người châu Âu, 752 người Hoa, 22.232 người Kinh và 840 nguời dân tộc bản địa.[52] Cuối năm 1953, đầu năm 1954, cuộc chiến tranh Đông Dương bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, Đà Lạt trở thành nơi dân cư các tỉnh lân cận tìm đến để tỵ nạn chiến tranh. Năm 1954, sau hiệp định Genève, thành phố đón nhận một lượng lớn những di dân từ miền Bắc cùng làn sóng người miền Trung đến lập nghiệp, khiến dân số Đà Lạt tăng vọt từ 25.000 người năm 1954 lên 58.958 người vào năm 1956. Dân số thành phố gia tăng điều hòa trong thập niên 1960, nhưng giảm sút trong thập niên 1970, khi chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn căng thẳng.[52] Khoảng thời gian đầu sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều người phục vụ trong quân đội, chính quyền Việt Nam Cộng hòa trở về quê quán khiến dân số Đà Lạt giảm xuống, nhưng sau đó được bổ sung bởi các di dân mới từ miền Bắc và miền Trung. Cuối thế kỷ 20, địa giới hành chính Đà Lạt được mở rộng, dân số thành phố tăng lên mạnh mẽ và có sự gia tăng dân số cơ học đáng kể.[53] Năm 2011, Đà Lạt có dân số 211.696 người, chiếm 17,4% dân số của tỉnh Lâm Đồng, mật độ 536 người/km².[1]
Trong lịch sử, Đà Lạt từng là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân cư có nguồn gốc đa dạng, từ người Kinh, người Cơ Ho đến những người Hoa, người Pháp. Ngày nay, phần lớn cư dân của thành phố là người Kinh, phần nhỏ còn lại gồm những người Hoa, người Cơ Ho và các dân tộc thiểu số khác như Tày, Nùng, Chăm...[54] Theo số liệu năm 2011, Đà Lạt có 191.803 cư dân thành thị,[2] tương đương 90%. Cấu trúc theo giới tính, thành phố có 100.520 cư dân nam và 111.176 cư dân nữ.[55][56] Cũng như các đô thị khác, mật độ dân số của Đà Lạt không đồng đều, dân cư tập trung nhiều nhất ở các phường trung tâm như Phường 1, Phường 2, Phường 6. Ở ngoại thành, cư dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó nông nghiệp chiếm một phần quan trọng. Khu vực ngoại thành của Đà Lạt rõ nét nhất là các xã Xuân Trường, Xuân Thọ và Tà Nung.[57]
Hành chính
Về hành chính, thành phố Đà Lạt được chia thành 12 phường và 4 xã. Ủy ban nhân dân thành phố nằm tại số 3 đường Trần Hưng Đạo, đối diện Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng và không xa trụ sở Hội đồng nhân dân thành phố. Nhiệm kỳ 2011–2016, người giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt là ông Võ Ngọc Hiệp.[58] Thành ủy Đà Lạt có trụ sở tại 31 đường Đinh Tiên Hoàng, Phường 2. Bí thư Thành ủy nhiệm kỳ 2010–2015 là ông Đoàn Văn Việt, cũng là người giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng nhân dân Đà Lạt nhiệm kỳ 2011–2016.[58]Danh sách các đơn vị hành chính thuộc Đà Lạt | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ghi chú: đơn vị diện tích: km²; mật độ: người/km². Nguồn: Niên giám thống kê Lâm Đồng năm 2010.[59] |
Giao thông
Do đặc điểm địa hình, giao thông Đà Lạt chỉ gồm đường bộ, đường sắt và đường không, nhưng hiện nay chỉ giao thông đường bộ và đường không thực sự hoạt động. Tuyến đường quan trọng nhất nối Đà Lạt với các thành phố khác là quốc lộ 20. Con đường này giao với quốc lộ 1 tại ngã ba Dầu Giây, tỉnh Đồng Nai, từ đó hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và nối với quốc lộ 27 tại D'Ran để về Phan Rang và các tỉnh Nam Trung Bộ.[22] Quốc lộ 20 còn cắt qua Di Linh, từ đây theo quốc lộ 28 về hướng nam sẽ dẫn đến thành phố Phan Thiết. Xuất phát từ Đà Lạt, tuyến đường 723 đi xuyên qua các huyện Lạc Dương của Lâm Đồng và Khánh Vĩnh, Diên Khánh của Khánh Hòa, tới thành phố Nha Trang. Con đường này được hoàn thành vào năm 2007, giúp hành trình giữa hai thành phố du lịch nổi tiếng chỉ còn khoảng 130 km, so với lộ trình cũ Đà Lạt – Phan Rang – Nha Trang dài 228 km.[60] Đà Lạt còn một tuyến tỉnh lộ khác là đường 722 đi Đam Rông, nối thành phố với các vùng tây bắc của tỉnh Lâm Đồng.[61] Giao thông nội thị, các tuyến xe buýt của thành phố hình thành vào năm 2006, với tuyến đầu tiên nối Đà Lạt với Đức Trọng.[62] Thời điểm 2007, Đà Lạt có ba công ty kinh doanh vận tải xe buýt, gồm Công ty Cổ phần Vận tải Ô tô Lâm Đồng, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Thái Hòa và Công ty Cổ phần Phương Trang, tổng cộng 79 đầu xe, khai thác các tuyến nội thị và từ Đà Lạt đến các huyện lân cận. Thành phố cũng có khoảng mười công ty tham gia kinh doanh vận tải taxi, trong đó có các hãng lớn như Mai Linh, Phương Trang và Thắng Lợi.[62][63]
Nhà ga mới của sân bay Liên Khương được khánh thành và đưa vào hoạt động cuối năm 2009.
Tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được xây dựng từ năm 1903 đến năm 1928, tới năm 1932 bắt đầu khai thác vận tải toàn tuyến.[68] So với các tuyến đường sắt khác ở Việt Nam, tuyến Tháp Chàm – Đà Lạt độc đáo nhờ sử dụng hệ thống đường sắt răng cưa, gồm ba đoạn từ Sông Pha lên tới Đà Lạt, tổng cộng gần 16 km.[70] Điểm cuối của tuyến đường sắt này là nhà ga Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, một công trình kiến trúc độc đáo do hai kiến trúc sư người Pháp Révéron và Moncet thiết kế.[71] Đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được sử dụng tới năm 1972, khi chiến tranh Việt Nam trở nên khốc liệt, tuyến đường buộc phải ngừng hoạt động. Từ năm 1991, thành phố Đà Lạt cho khôi phục 7 km đường sắt từ Đà Lạt tới Trại Mát, kết hợp cùng nhà ga Đà Lạt để phục vụ du lịch. Nơi đây ngày nay trở thành một trong những điểm hấp dẫn du khách của thành phố.[72] Mặc dù không còn kết nối trực tiếp với hệ thống đường sắt Việt Nam, nhà ga vẫn bán vé tàu cho hành khách và có xe trung chuyển từ ga Đà Lạt đến ga Nha Trang và ga Tháp Tràm.[63]
Kinh tế
Đà Lạt có một nền kinh tế thiên về các lĩnh vực du lịch, dịch vụ và nông nghiệp. Vào năm 2007, các ngành du lịch và dịch vụ chiếm đến 70% tổng sản phẩm nội địa của thành phố.[73] Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế của Đà Lạt năm 2011 đạt 2.047,400 tỷ đồng, tương đương với Bảo Lộc, thành phố thứ hai của Lâm Đồng.[74] Trong lĩnh vực công nghiệp, thu hút nhiều lao động nhất là các ngành công nghiệp chế biến.[75] Một số sản phẩm của Đà Lạt như rượu vang, trà Atisô hay mứt trái cây từ lâu đã được biết đến rộng rãi. Nhờ điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp, Đà Lạt còn là vùng đất trồng nhiều chè và cà phê, cũng là hai sản phẩm quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của thành phố. Một nghề mới phát triển trong những năm cuối thế kỷ 20 tại Đà Lạt là nghề thêu, nổi bật hơn cả là những sản phẩm tranh thêu của Công ty XQ Đà Lạt.[76] Trong thành phố, còn có thể thấy sự hiện diện của các công ty in ấn, may mặc, dệt, chế biến tinh dầu, sản xuất lâm sản... Năm 2011, thành phố Đà Lạt có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 17%, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 42,7 triệu đô la Mỹ và thu nhập bình quân đầu người khoảng 26,6 triệu đồng.[77]Du lịch
Khách sạn Dalat Palace, trước đây mang tên Sofitel Dalat Palace, một trong những khách sạn lâu đời và sang trọng nhất của Đà Lạt.
So với các đô thị khác của Việt Nam, Đà Lạt là thành phố được thiên nhiên dành cho nhiều ưu ái. Những thắng cảnh của thành phố, nằm rải rác ở cả khu vực trung tâm lẫn vùng ngoại ô, như hồ Xuân Hương, đồi Cù, thung lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, thác Prenn... từ lâu đã trở nên nổi tiếng. Tuy vậy, không ít danh thắng và di tích của Đà Lạt hiện nay rơi vào tình trạng hoang tàn và đổ nát. Thác Cam Ly, dòng thác từng đi vào thi ca lãng mạn, không còn vẻ đẹp vốn có mà tràn ngập rác thải và bốc mùi hôi thối nồng nặc do nguồn nước bị ô nhiễm.[83] Các địa điểm như thung lũng Tình Yêu, hồ Than Thở hay thác Prenn đã mất đi nét hoang sơ bởi sự xuất hiện của quá nhiều hàng quán, khu trò chơi và cây cảnh.[84] Thác Voi, một thắng cảnh khác không xa Đà Lạt, cũng bị ô nhiễm nặng do những người dân sinh sống ở vùng thượng nguồn thường xả rác và chất bẩn xuống dòng suối.[85] Vào năm 2008, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Lâm Đồng đã có văn bản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch rút tên hai thác Liên Khương và Gougah khỏi danh sách di tích quốc gia bởi cảnh quan hai danh thắng này đã bị thay đổi.[86]
Lịch sử đã để lại cho Đà Lạt không ít những công trình kiến trúc giá trị, như những công sở, trường học, nhà thờ, tu viện, chùa chiền, công trình công cộng... cùng hàng ngàn biệt thự xinh đẹp hiện diện khắp thành phố. Qua thời gian, những dinh thự, biệt điện xưa kia từng thuộc về các nhân vật quyền lực, ngày nay được mở cửa đón khách viếng thăm. Ba dinh thự nổi tiếng của Đà Lạt trước đây đều là địa điểm du lịch, nhưng hiện nay chỉ Dinh III còn giữ chức năng này và tiếp tục thu hút du khách. Dinh II, hay còn gọi Dinh Toàn quyền, được dùng làm khách sạn, nơi hội thảo của chính quyền địa phương, còn Dinh I đã đóng cửa vài năm gần đây để sửa chữa.[87] Một dinh thự khác của Đà Lạt, biệt điện Trần Lệ Xuân cũng trở thành điểm du lịch ngay từ năm 1964, ngày nay là Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, nơi lưu giữ Mộc bản triều Nguyễn.[88] Bên cạnh những di sản kiến trúc Pháp, một vài công trình xây dựng những thập niên gần đây như thiền viện Trúc Lâm, biệt thự Hằng Nga hay XQ Sử quán cũng đã trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn. Nhưng giống như các thắng cảnh, một vài công trình kiến trúc của Đà Lạt cũng đang bị bỏ quên hoặc xâm hại. Khuôn viên nhà ga Đà Lạt, một trong những biểu tượng nổi tiếng của thành phố, trở thành bãi tập kết gốm sứ, cây cảnh và vườn rau bắp cải của người dân.[89] Quần thể di tích kiến trúc Trường Cao đẳng Sư phạm không chỉ xuống cấp mà còn bị “chung cư hóa” bởi sự sinh hoạt của hơn 30 gia đình dân cư. Khu lăng mộ Nguyễn Hữu Hào từng bị bỏ hoang nhiều năm và trở thành địa điểm của những người nghiện ma túy và hoạt động mại dâm.[89]
Với tuổi đời chỉ hơn một thế kỷ, Đà Lạt không có những lễ hội truyền thống lâu đời. Tuy vậy, từ năm 2005, thành phố bắt đầu tổ chức Festival Hoa Đà Lạt, một lễ hội với nhiều sự kiện cùng các hoạt động nghệ thuật nhằm giới thiệu các loài hoa địa phương cũng như từ những vùng miền khác.[90] Năm 2007, dù chưa thực sự được tổ chức tốt, Festival Hoa Đà Lạt lần thứ hai đã thu hút khoảng 120 ngàn du khách tới thăm.[91] Festival Hoa Đà Lạt 2010 là sự kiện đầu tiên trong chuỗi bảy sự kiện quốc gia mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.[92] Trong dịp này, đã có gần 300 ngàn du khách đến với Đà Lạt trong suốt 4 ngày của lễ hội.[93] Năm 2012, Festival Hoa được tổ chức vào dịp nghỉ lễ Tết Dương lịch và đã thu hút hơn 300 ngàn du khách tới tham dự.[94] Trong những năm gần đây, số lượng khách du lịch tới Đà Lạt vẫn tiếp tục tăng. Vào năm 2000, thành phố đón 710 ngàn lượt khách tới thăm, đến năm 2009, con số đã tăng gấp ba với trên 2,1 triệu lượt khách, trong đó khoảng 10% là du khách quốc tế.[80][82] Mặc dù vậy, thời gian trung bình khách lưu lại Đà Lạt chỉ 2 ngày, trong khi tỷ lệ của Bình Thuận là 3,8 đến 4 ngày.[95] Du lịch Đà Lạt phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của Nha Trang và Phan Thiết, hai thành phố du lịch duyên hải không xa Đà Lạt.[87]
Nông nghiệp
Những người nông dân thu hoạch rau bắp cải, cây rau được trồng phổ biến nhất tại Đà Lạt.
Trước đây, tham gia sản xuất nông nghiệp ở Đà Lạt là các gia đình nông dân và một số điền trang tư nhân quy mô nhỏ. Thời kỳ sau năm 1975, với chính sách kinh tế kế hoạch tập trung, ở Đà Lạt xuất hiện các hợp tác xã nông nghiệp và các tập đoàn sản xuất. Sản xuất nông nghiệp khi đó được thực hiện theo kế hoạch đến từng khóm dân cư, việc thu mua rau do Công ty Nông sản Thực phẩm và Công ty Ngoại thương đảm nhận.[105] Nhưng đến cuối thập kỷ 1980, hầu hết các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã đều ngừng hoạt động và tự tan rã, phần lớn đất sản xuất được giao khoán đến từng gia đình nông dân.[106] Những năm gần đây, Đà Lạt xuất hiện nhiều công ty nông nghiệp tư nhân và nước ngoài, như Dalat Hasfarm Agrivina, Bonnie Farm, Rừng Hoa Đà Lạt, Langbiang Farm... trong lĩnh vực trồng hoa hay Golden Garden, Rau Nhà Xanh, Kim Bằng, Bio-Organics... tham gia sản xuất rau quả.[107] Với mục đích ổn định, phát triển ngành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vào năm 2002 và 2006, Hiệp hội rau quả Đà Lạt và Hiệp hội hoa Đà Lạt lần lượt được thành lập.[108] Nhờ mở rộng diện tích canh tác và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật, sản lượng nông nghiệp của thành phố tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Vào năm 1996, Đà Lạt thu hoạch 82.448 tấn rau, đến năm 2002 con số này lên tới 183.300 tấn,[107] và năm 2011, sản lượng rau của thành phố đạt 212.870 tấn.[109] Tương tự, ngành sản xuất hoa Đà Lạt cũng tăng trưởng trung bình 20% một năm, sản lượng hoa cắt cành ở mức 150 triệu cành năm 2001 đã tăng lên trên 900 triệu cành vào năm 2009[110] và 1,5 tỷ cành vào năm 2011.[104] Sản phẩm hoa của thành phố được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường Việt Nam, trong hơn 10 năm gần đây, chỉ khoảng 5% hoa Đà Lạt xuất khẩu ra nước ngoài.[111]
Xã hội
Y tế
Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ, bệnh viện tư đầu tiên của thành phố Đà Lạt, bắt đầu hoạt động từ năm 2008.
Ngày nay, Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng, Bệnh viện Y học cổ truyền Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng là ba bệnh viện tuyến tỉnh tại Đà Lạt, với tổng cộng 630 giường bệnh.[115] Cuối năm 2008, Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Đà Lạt tọa lạc trên đồi Long Thọ, thuộc Phường 10, bắt đầu hoạt động. Đây là bệnh viện tư đầu tiên của Đà Lạt và vùng nam Tây Nguyên với diện tích sàn sử dụng 30.000 mét vuông và 200 giường bệnh.[116] Năm 2010, Bệnh viện Nhi Đà Lạt bắt đầu được xây dựng trên đồi thông thuộc khu Thánh Mẫu - Tô Hiệu thuộc Phường 8. Dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2013, Bệnh viện Nhi Đà Lạt có quy mô 150 giường bệnh, sẽ là bệnh viện nhi đầu tiên ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.[117] Bên cạnh các cơ sở y tế tuyến tỉnh, thành phố cũng có một mạng lưới y tế riêng bao gồm các cơ sở như Nhà hộ sinh Thành phố, Văn phòng Trung tâm Y tế, các phòng khám đa khoa khu vực... cùng các trạm y tế thuộc phường, xã.[115] Những tổ chức hội y tế, gồm Hội Y Dược học, Hội Y học cổ truyền và Hội Chữ thập đỏ, cũng tham gia vào các hoạt động y tế ở thành phố.[118] Theo số liệu thống kê năm 2011, thành phố Đà Lạt có 195 bác sỹ, 146 y sỹ và kỹ thuật viên, 285 y tá và 1.085 giường bệnh.[119][120]
Giáo dục
Trường Dân tộc nội trú, trước đây là Trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ thục nổi tiếng.
Ngày nay, Đà Lạt vẫn là một trung tâm giáo dục của miền Nam Việt Nam. Năm 2011, ở bậc giáo dục tiểu học và phổ thông, toàn thành phố Đà Lạt có 44 trường,[127] 1.763 giáo viên[128] và 37.711 học sinh, trong đó 16.712 học sinh tiểu học, 12.311 học sinh trung học cơ sở và 8.688 học sinh trung học phổ thông.[129] Thành phố cũng có 25 trường,[130] 417 giáo viên[131] và 8.972 học sinh bậc mẫu giáo.[132] Tại Đà Lạt còn có thể thấy sự hiện diện của ba trường đại học, bốn trường cao đẳng cùng các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường giáo dục chuyên nghiệp, các cơ sở giáo dục đặc biệt dành cho trẻ em khuyết tật... Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được thành lập năm 1976, đến năm 1992, trường hợp nhất với Trung học Sư phạm và Sư phạm Mầm non trở thành một trường sư phạm đa hệ. Do nhu cầu giáo viên các bậc học mầm non, tiểu học và trung học cơ sở giảm bớt nên quy mô đào tạo trường cũng thu hẹp lại, chỉ còn hơn 1.000 sinh viên chính quy.[133] Năm 1976, Trường Đại học Đà Lạt được thành lập trên cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt trước đó. Thời gian đầu, trường chỉ đào tạo cử nhân cho các ngành khoa học cơ bản với quy mô nhỏ, 250 sinh viên trong niên học 1977-1979.[134] Ngày nay, Đại học Đà Lạt trở thành một trường đại học đa ngành với 52 ngành nghề của các bậc đào tạo từ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học đến nghiên cứu sinh.[135] Năm 2011, Trường Đại học Đà Lạt có 22.665 sinh viên đang theo học ở tất cả các bậc đào tạo.[136] Từ năm 2004, thành phố Đà Lạt có thêm một trường đại học mới mang tên Alexandre Yersin. Hiện nay, Trường Đại học Dân lập Yersin Đà Lạt gồm 8 khoa, đào tạo 2.329 sinh viên trong năm 2011.[136] Đà Lạt vẫn tiếp tục là địa điểm của một đại học quân sự quan trọng. Sau tháng 4 năm 1975, các trường quân sự của Việt Nam Cộng hòa bị giải thể. Bộ Quốc phòng quyết định chuyển địa điểm của Học viện Quân sự từ Hà Nội vào Đà Lạt, tiếp nhận cơ sở từ các trường quân sự cũ. Học viện Lục quân ngày nay nằm ở phía đông bắc thành phố, là nơi đào tạo sỹ quan trung cao cấp cho Quân đội Việt Nam, cũng là một cơ quan nghiên cứu khoa học quân sự.[137] Bên cạnh các cơ sở giáo dục, ở Đà Lạt còn có sự hiện diện của nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng, như Viện Sinh học Tây Nguyên, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt hay Viện Pasteur Đà Lạt.
Các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp tại Đà Lạt | |||
---|---|---|---|
Tên trường | Thành lập | Cơ sở tiền thân | Địa chỉ |
Trường Đại học Đà Lạt | 1976 | Viện Đại học Đà Lạt | 01 Phù Đổng Thiên Vương, Phường 8 |
Trường Đại học Dân lập Yersin Đà Lạt | 2004 | 01 Tôn Thất Tùng, Phường 8 | |
Học viện Lục quân Đà Lạt | 1946 | 02 Lữ Gia, Phường 9 | |
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt | 1976 | Trường Trung học Yersin | 29 Yersin, Phường 10 |
Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt | 2007 | Trường Kỹ thuật Đà Lạt | 01 Hoàng Văn Thụ, Phường 4 |
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Lâm Đồng | 2000 | Trường Kỹ thuật Lasan | 25 Trần Phú, Phường 4 |
Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng | 2009 | Trung học Y tế Lâm Đồng | 6B Ngô Quyền, Phường 6 |
Trường Trung cấp Du lịch Đà Lạt | 2006 | 1A Tôn Thất Tùng, Phường 8; 10 Lý Tự Trọng, Phường 2 |
Tôn giáo và tín ngưỡng
Nhà thờ chính tòa Đà Lạt, còn được gọi Nhà thờ Con Gà, khánh thành năm 1942.
Hầu hết các tôn giáo lớn ở Việt Nam đều có mặt tại Đà Lạt, trong đó đạo Phật là tôn giáo có lượng tín đồ đông đảo nhất, tiếp đến tới Thiên Chúa giáo, đạo Cao Đài và đạo Tin Lành.[139] Các tôn giáo du nhập vào vùng cao nguyên Lâm Viên từ khá sớm và sự tăng trưởng về số lượng tín đồ, cơ sở thờ tự đều gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của thành phố. Hầu như mỗi cuộc di dân đến đây đều đem lại cho Đà Lạt thêm một số lượng tín đồ cùng sự hình thành các cơ sở thờ tự mới. Có mặt sớm nhất ở Đà Lạt là Thiên Chúa giáo, xuất hiện ngay từ những ngày đầu xây dựng thành phố. Muộn hơn một chút là sự hoằng dương của Phật giáo rồi đến sự du nhập của đạo Tin Lành và đạo Cao Đài.[139] Tuy hội đủ các loại hình tôn giáo khác nhau, nhưng các tôn giáo ở Đà Lạt chung sống hòa bình, trong gần 100 năm qua không hề có những xung đột tôn giáo.[138] Nhiều thánh đường Thiên Chúa giáo nằm bên các chùa chiền và không xa có thể là một thánh thất Cao Đài.[143] Bên cạnh xứ mệnh mở mang tôn giáo, những người tu hành của Thiên Chúa giáo, Tin Lành và Phật giáo ở Đà Lạt còn tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực từ thiện nhân đạo. Rất nhiều những ngôi trường, cô nhi viện của thành phố xuất phát từ các cơ sở do những tổ chức tôn giáo thành lập. Theo số liệu của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt vào năm 2002, có khoảng 63% số hộ và 67% số nhân khẩu ở thành phố là tín đồ của Phật giáo, Cao Đài, Thiên Chúa giáo, hoặc Tin Lành .[143]
Kiến trúc
Nhà ga xe lửa Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, ngày nay trở thành một địa điểm du lịch.
Thành phố Đà Lạt được ví như một bảo tàng kiến trúc phương Tây đầu thế kỷ 20 với nhiều công trình nổi tiếng và những biệt thự xinh đẹp.[153] Các công trình kiến trúc tiêu biểu nơi đây đều chọn lựa bố cục tổng thể theo hình khối nằm ngang ổn định, gắn kết chặt chẽ với địa hình và hòa hợp với thiên nhiên. Những công trình xây dựng dưới thời thuộc địa đều có cơ sở thiết kế phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương và điều kiện sinh hoạt của cư dân.[154] Trải qua một thời gian dài xây dựng thành phố, phong cách kiến trúc đã có nhiều thay đổi, từ phong cách kiến trúc thuộc địa tiền kỳ đơn giản với những cửa cuốn vòm và hành lang bao quanh, tới phong cách Tân cổ điển với những trang trí phong phú, đến phong cách kiến trúc địa phương Pháp của những ngôi biệt thự, và phong cách kiến trúc Hiện đại với nhiều hình khối, bố cục phi đối xứng ở các dinh thự. Tuy Đà Lạt mang đậm dấu ấn của những kiến trúc sư người Pháp, nhưng các nhà kiến trúc này khi thiết kế những công trình cho Đà Lạt cũng đã chịu ảnh hưởng của đặc điểm thiên nhiên, đặc biệt là các điều kiện về khí hậu thời tiết, cảnh quan môi trường nơi đây. Hiện tượng giao thao này đã đem lại cho Đà Lạt một phong cách kiến trúc riêng độc đáo và nhiều bản sắc.[154] Tuy vậy, sau nhiều thập niên phát triển thiếu quy hoạch và buông lỏng quản lý, kiến trúc đặc sắc của Đà Lạt đã chịu nhiều biến dạng. Tình trạng xây cất trái phép, không phù hợp với quy hoạch, lấn chiếm những khu vực trống, tàn phá rừng nội ô... khiến bộ mặt kiến trúc đô thị của Ðà Lạt ngày nay trở nên nhem nhuốc.[155] Không ít công trình kiến trúc giá trị không được bảo tồn tốt phải hứng chịu sự tàn phá của thời gian. Trong khắp thành phố, nhiều ngôi biệt thự cổ bị bỏ hoang hoặc biến thành chung cư, nhà trọ. Năm 2010, chính quyền tỉnh Lâm Ðồng thông báo quyết định mời một nhóm kiến trúc sư thuộc Viện Thiết kế quy hoạch đô thị Paris và một công ty thiết kế quy hoạch khác của Pháp thực hiện quy hoạch lại Ðà Lạt.[155]
-
Nhà thờ Domaine de Marie
-
Viện Sinh học Tây Nguyên
-
Dinh Bảo Đại
-
Biệt thự Hằng Nga
-
Thiền viện Trúc Lâm
Văn hóa và truyền thông
Địa điểm văn hóa
Thư viện Lâm Đồng, thư viện duy nhất của Đà Lạt nếu không tính các thư viện trong cơ quan, trường học.
Thư viện tỉnh Lâm Đồng nằm ở số 22 đường Trần Phú, vốn là Thư viện Đà Lạt thành lập từ năm 1958 trên cơ sở tiếp quản toàn bộ khuôn viên tòa thị chính thị xã Đà Lạt. Sau năm 1975, cơ sở này được giao cho cơ quan văn hóa quản lý. Năm 1976, Thư viện tỉnh Lâm Đồng được thành lập dựa trên nền tảng Thư viện Đà Lạt và hàng ngàn bản sách do Thư viện Hà Giang gửi tặng.[160] Hiện nay, thư viện lưu giữ trên 200.000 bản sách và hàng chục ngàn bản báo và tạp chí,[161] phục vụ 35.397 lượt độc giả trong năm 2011.[162] Năm 1978, Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng được thành lập với các hiện vật về dân tộc học từ một số bộ sưu tập cá nhân và của chính quyền Việt Nam Cộng hòa để lại. Vào thời điểm ra đời, bảo tàng nằm ở số 31 đường Trần Bình Trọng. Sau nhiều lần thay đổi địa điểm, năm 1999, Bảo tàng Lâm Đồng chuyển về số 4 đường Hùng Vương, vốn là biệt thự của điền chủ Nguyễn Hữu Hào, cha của Hoàng hậu Nam Phương.[160] Ngày nay, Bảo tàng Lâm Đồng được xem như bảo tàng tổng hợp về khảo cứu địa phương, lưu giữ khoảng hơn 15.000 hiện vật về các nghiên cứu, phát hiện khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử và hai cuộc chiến tranh.[163] Năm 2011, nơi đây đã đón 16.949 lượt khách tới tham quan.[157]
Cơ quan truyền thông
Từ năm 1949, thành phố Đà Lạt đã có đài phát thanh, Radio Dalat là một trong bốn đài phát thanh thành lập đầu tiên ở Việt Nam.[164] Trước đó, vào tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa Đà Lạt - Lâm Viên từng thiết lập một trạm truyền thanh trong một căn phòng nhỏ ở trước chợ trung tâm Đà Lạt, ngày nay là rạp 3-4, dùng cho mục đích tuyên truyền.[165] Radio Dalat thời gian đầu được đặt trên tầng ba của khách sạn Hôtel du Parc, phát thanh hàng ngày bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Cơ Ho.[164] Tháng 4 năm 1975, quân đội miền Bắc tiến vào Đà Lạt, tiếp quản cơ sở của Đài Phát thanh Đà Lạt, thiết lập nên Đài Phát thanh Đà Lạt giải phóng.[166] Nhờ sự trợ giúp kỹ thuật của Truyền hình Việt Nam, tháng 9 năm 1977, một trạm tiếp sóng truyền hình được xây dựng tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế thuộc Phường 7, tiếp sóng kênh 9 Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.[165] Năm 1984, Ủy ban Nhân dân tỉnh quyết định đổi tên Đài Phát thanh Lâm Đồng thành Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng. Hiện nay, cùng với việc tiếp phát sóng của hai đài quốc gia, chương trình truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng phát sóng 11 giờ mỗi ngày, chương trình phát thanh phát sóng 7 giờ mỗi ngày.[167] Bên cạnh Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt còn có Đài Truyền thanh – Truyền hình Đà Lạt, nằm ở số 4 đường Thủ Khoa Huân.[164] Là trung tâm hành chính của Lâm Đồng, ở Đà Lạt có sự hiện diện của nhiều tờ báo, tạp chí của tỉnh, trong đó quan trọng nhất là Báo Lâm Đồng. Tờ báo này ra số đầu tiên vào ngày 19 tháng 8 năm năm 1977, hiện nay phát hành 3 số mỗi tuần vào thứ ba, thứ năm và thứ bảy.[168] Báo Lâm Đồng cũng có một ấn bản điện tử cập nhật hàng tuần vào ngày thứ sáu với nội dung tổng hợp từ tin bài của các số báo in.[169] Ngoài ra, báo chí Đà Lạt có thể kể đến các tờ tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ của Sở Khoa học và Công nghệ, tạp chí Lang Bian của Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, tạp chí Du lịch Đà Lạt của Sở Du lịch và Thương mại.[166]Đà Lạt với nghệ thuật
Thành phố Đà Lạt thơ mộng là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt trong các lĩnh vực âm nhạc, nhiếp ảnh và văn chương. Những tác phẩm đầu tiên viết về Đà Lạt chủ yếu là nhật ký và ghi chép của các nhà thám hiểm như bác sỹ Paul Néis, trung úy Albert Septans, bác sỹ Alexandre Yersin... tất cả đều được viết bằng tiếng Pháp.[170] Tác phẩm về Đà Lạt đầu tiên của người Việt có lẽ là Lâm Viên hành trình nhật ký của Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư Bộ công của triều đình Huế, người lên Đà Lạt năm 1917 để nghiên cứu việc xây dựng hành cung.[171] Khi nơi đây dần trở thành một thành phố, trên báo chí bắt đầu xuất hiện những bài viết, phóng sự về Đà Lạt. Trong lĩnh vực thi ca, ghi lại dấu ấn trong giai đoạn đầu này là hai bài thơ Đà Lạt trăng mờ của Hàn Mặc Tử và Đà Lạt đêm sương của Quách Tấn.[171] Khoảng thời gian 1954 đến 1975, khi Đà Lạt là một trong những trung tâm tri thức của miền Nam Việt Nam, các tác phẩm với bối cảnh thành phố cũng ra đời nhiều hơn, như truyện dài Hoa bươm bướm của Võ Hồng, Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng, Con đường của Nguyễn Đình Toàn, các tiểu thuyết Tóc Mây và Thung lũng tình yêu của Lệ Hằng hay tập truyện ngắn Bay đi những cơn mưa phùn của Phạm Công Thiện.[172] Đà Lạt cũng là nơi các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đương thời như Nhất Linh, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng... thường ghé qua.[172]
Quán Café Tùng ở trung tâm thành phố, nơi Khánh Ly và Trịnh Công Sơn lần đầu gặp gỡ vào năm 1964.
Phong cảnh và con người Đà Lạt, Lâm Đồng đã trở thành đề tài khai thác của rất nhiều nhiếp ảnh gia Việt Nam.[178] Những năm gần đây, không ít những triển lãm với đề tài Đà Lạt đã được tổ chức tại chính thành phố hoặc ở những đô thị khác. Triển lãm ảnh "Đà Lạt xưa" với sự tham gia của các nhiếp ảnh gia danh tiếng của Việt Nam và nước ngoài được tạp chí Xưa & Nay tổ chức tại khách sạn Sammy Đà Lạt năm 2008.[179] Năm 2010, triển lãm ảnh "Đà Lạt - Cadasa" tại Công trường Lam Sơn, Thành phố Hồ Chí Minh, đã trưng bày tác phẩm của những nữ nghệ sĩ nhiếp ảnh về các biệt thự cổ vừa được trùng tu trên đường Trần Hưng Đạo, phản ảnh sự hồi sinh của quần thể biệt thự cổ và ý thức về trách nhiệm giữ gìn di sản kiến trúc, văn hóa và lịch sử.[180] Năm 2010, những bức ảnh về Đà Lạt được đưa đến tham dự triển lãm tại thành phố Nam Ninh, Trung Quốc nhằm mang hình ảnh của "Đà Lạt - thành phố hoa" đến với ASEAN. Đây là hội chợ triển lãm những thành phố đẹp thuộc các nước ASEAN diễn ra hàng năm tại Trung Quốc và Đà Lạt là thành phố Việt Nam được chọn triển lãm nhằm giới thiệu, trưng bày, quảng bá những hình ảnh địa phương tới du khách.[181] Vào năm 2000, tại Liên hoan ảnh nghệ thuật quốc tế Hassemblad Austrian Super Circuit ở Áo, câu lạc bộ Nhiếp ảnh Đà Lạt đã được ban tổ chức tặng Cúp vàng và bình chọn là câu lạc bộ có bộ ảnh dự thi đẹp nhất trong số 41 ngàn bức ảnh từ hơn 120 nước trên thế giới.[173]
Trong lĩnh vực nghệ thuật thứ bảy, Đà Lạt là nơi lý tưởng mà nhiều đạo diễn truyền hình và điện ảnh trong nước chọn làm địa điểm quay phim. Thành phố thu hút các nhà làm phim nhờ giá sinh hoạt tương đối thấp và dễ dàng tìm được bối cảnh cho những cảnh quay đẹp. Một lý do khác, khí hậu mát mẻ, dễ chịu của Đà Lạt cũng tạo nhiều thuận lợi trong việc làm phim.[182] Với những lợi thế để trở thành một phim trường thực sự, bao gồm phong cảnh thiên nhiên ưu đãi và những thắng cảnh, không gian những tòa kiến trúc, biệt thự, Đà Lạt từng có dự án đầu tư một phim trường và khu công viên nghệ sỹ tại Khu du lịch hồ Tuyền Lâm, tuy vậy đến thời điểm 2011, dự án này vẫn chưa được triển khai.[183] Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam, có thể thấy không ít những bộ phim lấy bối cảnh Đà Lạt, trong số đó có thể kể đến như Con ma nhà họ Hứa (1973), Giỡn mặt tử thần (1975), Tình nhỏ làm sao quên (1993), Khi yêu đừng quay đầu lại (2010)...
Tham khảo
Chú thích
- ^ a b c d “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo huyện, thị xã, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b “Dân số trung bình thành thị phân theo huyện, thị xã, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Hữu Tranh (9 tháng 3 năm 2006). "Địa danh và truyền thuyết ở Đà Lạt, Lạc Dương". Thông tin Khoa học và Kỹ thuật Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Hoàng Xuân Hãn 2008, tr. 47
- ^ Hoàng Xuân Hãn 2008, tr. 48
- ^ "Kiến trúc Đà Lạt". Thông tin du lịch Lâm Đồng - Đà Lạt. 9 tháng 3 năm 2007. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 406
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 7
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 98
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 434
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 435
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 117
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 436
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 8
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 68
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 10
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 14–15
- ^ Hoàng Xuân Hãn 2008, tr. 65
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 20
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 307
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 179
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 248
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 85
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 22
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 180
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 426–427
- ^ “Quyết định: Về việc công nhận Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng”. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (23 tháng 3 năm 2009). Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 61
- ^ “Nghị định: Về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Đà Lạt, huyện Đức Trọng, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng”. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (6 tháng 3 năm 2009). Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 71
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 16
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 72
- ^ Lưu Vĩ Lân (10 tháng 8 năm 2012). "Không chỉ là một nơi sống, mà là một cách sống". Tuổi Trẻ. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 85
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 87
- ^ a b Trương Trổ 1993, tr. 37
- ^ "Hồ Xuân Hương". Thông tin du lịch Lâm Đồng - Đà Lạt. 9 tháng 3 năm 2007. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b c d Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 77
- ^ a b c Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 78
- ^ Lê Thị Thông (9 tháng 3 năm 1988). "Chế độ nhiệt ở Đà Lạt". Thông tin Khoa học và Kỹ thuật Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 79
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 80–81
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 29
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 83
- ^ Nguyễn Hữu Tranh 2001, tr. 153
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 78 & 83
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 101–105
- ^ “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2009 phân theo huyện, thị xã, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2009. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 101
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 102
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 103
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 104
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 105
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 122
- ^ “Dân số trung bình nam phân theo huyện, thị xã, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Dân số trung bình nữ phân theo huyện, thị xã, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 117
- ^ a b Thụy Trang (23 tháng 6 năm 2011). "Đà Lạt: Bầu các chức danh chủ chốt HĐND và UBND". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Tấn Châu; nhiều tác giả (2011). Niên giám thống kê năm 2010. Đà Lạt: Cục Thống kê Lâm Đồng.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 249 – 250
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 249
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 210
- ^ a b Nguyễn Văn Hùng 2012, tr. 19
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 251
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 252
- ^ Hồ Khải Nhiên (27 tháng 12 năm 2009). "Sân bay Liên Khương có nhà ga mới". Tuổi Trẻ. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Văn Hùng 2012, tr. 12
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 253
- ^ "Bàn giao sân bay Cam Ly cho Bộ Quốc phòng". Báo điện tử Kiến Thức. 21 tháng 12 năm 2010. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 255
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 256
- ^ “Ga Đà Lạt”. Tỉnh Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 414
- ^ “Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 220
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 235
- ^ Minh Đạo (11 tháng 12 năm 2011). "Đảng bộ Đà Lạt hiện thực hóa nghị quyết vào cuộc sống". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 182
- ^ Đặng Tuấn (12 tháng 3 năm 2010). "Bao giờ du lịch Đà Lạt hết cảnh “ăn” vào thiên nhiên". Báo Văn Hóa. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b c Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 185
- ^ Nguyễn Thị Bích Ngọc (tháng 3 năm 2010). "Quản lý chất lượng dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt". Thông tin Khoa học và Công nghệ Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Bình Nguyên (10 tháng 10 năm 2010). "Đà Lạt làm gì để du lịch trở thành ngành kinh tế động lực". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Hàng Tình (18 tháng 1 năm 2011). "Thác Cam Ly bốc mùi hôi". Tuổi Trẻ. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ "Du lịch Đà Lạt thời hội nhập". Lao Động. 20 tháng 3 năm 2008. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Lê Hân (21 tháng 2 năm 2010). "Tàn lụi thắng cảnh Đà Lạt". Thanh Niên. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Vĩnh Xuân (28 tháng 2 năm 2008). "Xung quanh việc 2 di tích quốc gia ở Lâm Đồng xin khai tử". Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Ngọc Hà (19 tháng 2 năm 2008). "Du lịch Đà Lạt tết Mậu Tý - nỗi buồn lặp lại!". Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 195
- ^ a b Nguyễn Hàng Tình (21 tháng 3 năm 2008). "Danh thắng Đà Lạt: Hoang tàn và nhếch nhác…". Tuổi Trẻ. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Văn Hùng 2012, tr. 10
- ^ "Lâm Đồng: Nhận thiếu sót trong tổ chức Festival hoa 2007". Sài Gòn Giải Phóng. 4 tháng 1 năm 2008. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Quốc Dũng (3 tháng 1 năm 2010). "300.000 người đổ về Festival hoa Đà Lạt". VnExpress. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Hàng Tình; Phước Tuần (4 tháng 1 năm 2010). "Bữa tiệc rượu vang khép lại Festival Hoa Đà Lạt". Tuổi Trẻ. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Chí Long (4 tháng 1 năm 2012). "Bế mạc Festival Hoa Đà Lạt 2012". Quân đội nhân dân. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Văn Phong (17 tháng 10 năm 2008). "Du lịch Đà Lạt đang ở đâu". Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 411
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 145
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 147
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 149
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 151–152
- ^ “Diện tích rau các loại phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Diện tích trồng cây ăn quả phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Diện tích lúa cả năm phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Lê Hoa (3 tháng 1 năm 2012). "Để hoa Đà Lạt phát triển bền vững, không chỉ là liên kết bốn nhà". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 163
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 164
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 135
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 165
- ^ “Sản lượng rau các loại phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyễn Quốc Vọng. “Hoa Đà Lạt: Hiện trạng, thách thức và cơ hội tham gia thị trường quốc tế”. Hội thảo hoa Đà Lạt 2010. Thành phố Đà Lạt. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Kim Anh (6 tháng 1 năm 2011). "Sản lượng hoa Đà Lạt xuất khẩu vẫn chỉ đạt 5%". Báo Tiền Phong. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 337
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 340
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 346
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 342
- ^ "Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Đà Lạt đi vào hoạt động". Tuổi Trẻ. 27 tháng 12 năm 2008. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Quốc Dũng (29 tháng 6 năm 2010). "Bệnh viện nhi đầu tiên của Tây Nguyên". VnExpress. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 348
- ^ “Số cán bộ ngành y năm 2011 phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Số giường bệnh năm 2011 phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 349
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 350
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 351
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 353
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 354
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 355
- ^ “Số trường phổ thông năm 2011 phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Số giáo viên phổ thông năm 2011 phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Số học sinh phổ thông năm 2011 phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Số trường mẫu giáo phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Số giáo viên mẫu giáo phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Số học sinh mẫu giáo phân theo huyện, thành phố”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 359
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 361
- ^ Lê Bá Dũng (2008). “Quá trình đổi mới, phát triển của Trường Đại học Đà Lạt từ năm 1976 đến nay”. Trường Đại học Đà Lạt. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b “Số trường, số giáo viên và sinh viên của giáo dục đại học”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 362
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 373
- ^ a b c Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 384
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 374
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 374–375
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 375
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 385
- ^ Khấu Châu (14 tháng 4 năm 2010). "Mời người Pháp quy hoạch lại Đà Lạt". Dân Trí. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 299
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 300
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 154
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 303
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 158
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 159
- ^ Trương Trổ 1993, tr. 161–164
- ^ Hoàng Xuân Hãn 2008, tr. 291
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 196
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 313
- ^ a b Nguyễn Quang (30 tháng 9 năm 2010). "Bảo tồn giá trị kiến trúc đô thị Ðà Lạt". Nhân Dân. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Lâm Viên (1 tháng 4 năm 2010). "Đà Lạt sẽ không còn rạp chiếu phim". Thanh Niên. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b “Nhà bảo tàng và di tích”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Hoạt động nghệ thuật và chiếu phim”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 294–296
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 294
- ^ Diệp Quỳnh (25 tháng 10 năm 2011). "Thư viện Lâm Đồng góp phần giữ gìn văn hóa đọc". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Thư viện”. Niên giám thống kê năm 2011. Cục Thống kê Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Khắc Dũng (5 tháng 6 năm 2012). "Cơ hội để Bảo tàng Lâm Đồng nhìn lại mình". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b c Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 298
- ^ a b “Sự nghiệp phát thanh, truyền hình Lâm Đồng”. Đài Phát thanh & Truyền hình Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 297
- ^ “Đài Phát thanh & Truyền hình Lâm Đồng”. Tỉnh Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 296
- ^ “Báo Lâm Đồng”. Tỉnh Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 286
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 287
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 288
- ^ a b Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 293
- ^ Hoàng Anh Phi (2010), Đà Lạt: Bản đồ và cẩm nang du lịch, Hà Nội: Nhà xuất bản Bản Đồ.
- ^ Khánh Ly. (2000) (DVD). Khánh Ly - Một đời Việt Nam. Garden Grove: Khanh Ly Productions.
- ^ Minh Đạo (4 tháng 4 năm 2011). "Trịnh - nhạc và cà phê". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Dạ Ly (15 tháng 2 năm 2011). "Những đôi uyên ương trên sàn diễn: Lê Uyên - Phương và mối tình định mệnh". Thanh Niên. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Trần Sỹ Thứ 2008, tr. 292
- ^ Gia Bình (14 tháng 12 năm 2008). "Triển lãm ảnh "Đà Lạt xưa"". Thanh Niên. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ "Triển lãm ảnh CLB Nhiếp ảnh nữ Hải âu: Đà Lạt Cadasa". Sài Gòn Giải Phóng. 31 tháng 10 năm 2010. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyệt Thu (14 tháng 10 năm 2010). "Mang hình ảnh của “Đà Lạt - thành phố hoa” đến với Trung Quốc". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Nguyên Vân (14 tháng 8 năm 2010). "Tiến về Đà Lạt... làm phim". Thanh Niên. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
- ^ Khải Nhiên (2 tháng 1 năm 2011). "Đà Lạt bước ra từ phim trường". Báo Lâm Đồng. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
Thư mục
- Trần Sỹ Thứ; nhiều tác giả (2008), Địa chí Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Hữu Tranh (2001), Đà Lạt năm xưa, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trương Trổ; nhiều tác giả (1993), Đà Lạt: Thành phố cao nguyên, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Tấn Châu; nhiều tác giả (2012), Niên giám thống kê năm 2011, Đà Lạt: Cục Thống kê Lâm Đồng.
- Hoàng Xuân Hãn; nhiều tác giả (2008), Đà Lạt xưa, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn.
- Jennings, Eric Thomas (2011), Imperial Heights: Dalat and the Making and Undoing of French Indochina, Berkeley: University of California Press.
- Nguyễn Văn Hùng; nhiều tác giả (2012), Cẩm nang hướng dẫn du lịch Đà Lạt – Lâm Đồng, Đà Lạt: Sở Thông tin và Truyền thông Lâm Đồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét