Vị trí địa lý
Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp,
thấp dần từ Tây sang Đông, với độ chênh lệch khá lớn (khoảng 1.000m).
Các dạng địa hình phổ biến là: Vùng núi, đồi và cao nguyên:
chiếm 70% diện tích toàn tỉnh với độ cao trung bình 500 - 1.000m, đỉnh
cao nhất là 1.202m ở xã An Toàn (huyện An Lão). Các dãy núi chạy theo
hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo
thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các
dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ
thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá. Vùng đồi:
tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích
khoảng 159.276 ha, có độ cao dưới 100m, độ dốc tương đối lớn từ 10° –
15°. Vùng đồng bằng: Diện tích khoảng
1.000 km², được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, thường nằm
trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển
bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Vùng ven biển:
Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển
với hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Bình Định còn có 33 đảo
lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo đơn lẻ, trong đó đảo Nhơn
Châu là đảo lớn nhất (364 ha) cách TP. Quy Nhơn 24 km, có trên 2.000
dân. Ngoài các vùng địa hình đặc trưng nói trên, Bình Định có khá nhiều
sông. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp,
tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu kw. Có 4
sông lớn là: Lại Giang, Kôn, La Tinh và Hà Thanh. Nhiều hồ nhân tạo được
xây dựng để phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy
hải sản. Đặc biệt, đầm Thị Nại là đầm lớn, rất thuận lợi cho việc phát
triển cảng biển tầm cỡ quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn
Hội. Đầm còn được biết đến là một di tích lịch sử - văn hóa và với cây
cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.
Khí hậu:
Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió
mùa. Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi
20,1 - 26,1°C; tại vùng duyên hải là 27°C. Độ ẩm tuyệt đối trung bình
tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5 - 27,9% và độ ẩm tương đối
79 – 92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ
ẩm tương đối 79%. Tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751mm, cực đại là
2.658mm, cực tiểu là 1.131mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 – 12; mùa khô
kéo dài từ tháng 01 – 8. Cấu tạo địa chất, địa hình, khí hậu làm
cho Bình Định tuy không có đồng bằng rộng lớn nhưng có đồng ruộng phì
nhiêu, đa dạng về sản phẩm nông, lâm, ngư …, nhiều tài nguyên khoáng
sản và tiềm năng thuỷ điện.
Tổ chức hành chính:
Bình Định có thành phố loại I trực thuộc
tỉnh (TP Quy Nhơn), một thị xã (An Nhơn), 3 huyện miền núi (An Lão, Vân
Canh và Vĩnh Thạnh), 2 huyện trung du (Hoài Ân,Tây Sơn), 4 huyện đồng
bằng (Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước). Toàn tỉnh có 159 xã,
phường và thị trấn. Trung tâm hành chính của tỉnh là TP. Quy Nhơn.
Dân số:
Dân số tỉnh đang có xu hướng giảm cơ
học, theo kết quả điều tra chính thức ngày 01/4/2009, dân số tỉnh Bình
Định có 1.485.943 người, trong thành thị chiếm 25%, nông thôn chiếm 75%,
mật độ 247 người/km². Ngoài dân tộc Kinh, còn có gần 40.000 các dân tộc
khác cùng chung sống, nhưng chủ yếu là 3 dân tộc Chăm, Ba Na và Hrê
sinh sống ở các huyện miền núi và trung du.
Ban biên tập (tổng hợp)
TỔNG QUAN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH ĐỊNH
Bình Định là 1 trong 5 tỉnh, thành
phố ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm
Miền Trung. Bình Định có diện tích tự nhiên là 6.039 km2; theo kết quả
Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 1/4/2009, dân số tỉnh Bình Định
(năm 2009) là 1.485.943 người; gồm 09 huyện, 01 thị xã và Tp. Quy Nhơn.
Thành phố Quy Nhơn là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định, được công
nhận (theo Quyết định số 159/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Bình Định có vị
trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia
ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và
đường bộ Bắc - Nam Việt Nam, đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất
và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông
Bắc Thái Lan thông qua Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn. Ngoài
lợi thế này, Bình Định còn có nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân
văn phong phú và nguồn nhân lực khá dồi dào. Trong Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt (theo Quyết định số 54/2009/QĐ-TTg ngày 14/4/2009),
Bình Định được xác định sẽ trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại
và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế - xã hội, đóng góp
tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả
nước.
Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không
và đường biển khá thuận lợi. Quốc lộ 1A đoạn qua Bình Định dài 118 km,
Quốc lộ 1D đoạn qua Bình Định dài 20,7 km, Quốc lộ 19 qua Bình Định dài
69,5 km, với tổng chiều dài 208 km; lưu lượng xe trung bình ngày đêm
khoảng 2.500-2.700 xe. Quốc lộ 19 nối liền cảng biển quốc tế Quy Nhơn
với các tỉnh thuộc khu vực vùng Bắc Tây Nguyên qua các cửa khẩu quốc tế
Đức Cơ, Bờ Y và vùng 3 biên giới Việt Nam- Lào- Campuchia, là một trong
những con đường có chất lượng tốt nhất trong hệ thống trục ngang ở miền
Trung Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện liên kết Đông - Tây, thúc đẩy
giao lưu kinh tế, hợp tác phát triển với bên ngoài. Sân bay Phù Cát cách
Tp. Quy Nhơn 30 km về phía Tây Bắc, có đường băng rộng 45 mét dài 3.050
mét. Tuyến Quy Nhơn - Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại mỗi tuần có 10
chuyến bay của Vietnam Airlines và 7 chuyến bay của Air Mekong; tuyến
Quy Nhơn - Hà Nội và ngược lại mỗi tuần có 6 chuyến bay của Vietnam
Airlines. Nhà ga hàng không có công suất 300 hành khách/giờ. Đường sắt
Bắc - Nam đi qua Bình Định dài 148 km gồm 11 ga, trong đó ga Diêu Trì là
ga lớn, là đầu mối của tất cả các loại tàu trên tuyến đường sắt. Ngoài
các chuyến tàu Bắc- Nam còn các chuyến tàu nhanh từ Quy Nhơn đi vào các
tỉnh khu vực Nam Trung bộ đến TP Hồ Chí Minh và đi ra đến Nghệ An.
Bình Định có cảng biển quốc tế Quy Nhơn và cảng nội địa Thị Nại, trong
đó cảng biển quốc tế Quy Nhơn có khả năng đón tàu tải trọng từ 2-3 vạn
tấn, cách Phao số 0 khoảng 6 hải lý, cách hải phận quốc tế 150 hải lý.
Hiện cảng có 6 bến với 840m cầu cảng, khoảng 17.680m2 kho, 12.000m3 bồn
và trên 200.000m2 bãi. Lượng hàng qua cảng năm 2005 đạt 2,5 triệu TTQ.
Dự báo lượng hàng qua cảng có thể đạt từ 4-5 triệu tấn vào năm 2010.
Bình Định là tỉnh có tiềm năng về kinh tế biển; với chiều dài bờ biển
134km; vùng lãnh hải 2.500km2, vùng đặc quyền kinh tế 40.000km2; có các
cảng cá Nhơn Châu, Quy Nhơn, Tam Quan, Đề Gi và khu trú đậu tàu thuyền
Tam Quan. Trong các cảng cá nêu trên có cảng cá Nhơn Châu là tốt nhất,
có nguồn lợi hải sản phong phú, giá trị kinh tế cao như cá thu, cá ngừ
đại dương, cá nục, cá trích, cá cơm, cá chuồn, tôm mực cùng các đặc sản
quý hiếm (yến sào, cua huỳnh đế, hải sâm...), tổng số tàu, thuyền là gần
8.000 chiếc trong đó có hơn 2.500 chiếc đánh bắt xa bờ. Sản lượng hải
sản khai thác hàng năm khoảng 25.000-33.000 tấn (chưa kể sản lượng khai
thác xa bờ). Dự báo đến năm 2010 khả năng khai thác khoảng 110.000 tấn,
giai đoạn 2011-2020 khai thác ổn định ở mức 100.000 tấn/năm.
Tổng diện tích mặt nước khoảng 10.920ha (không kể 67.000ha mặt biển).
Trong đó, đầm Thị Nại 5.060ha, đầm Đề Gi 1.600ha, vùng cửa sông Tam Quan
300ha và một số ao hồ nước ngọt... là điều kiện thuận lợi để phát triển
nuôi trồng thủy sản. Hiện đã có 2.648ha mặt nước nuôi tôm. Theo quy
hoạch của ngành thủy sản, đến năm 2005 ổn định diện tích nuôi tôm, cua
vào khoảng 5.000ha; sản lượng tôm nuôi thu hoạch khoảng 5.000-6000
tấn/năm; kết hợp với sản lượng hải sản đánh bắt, đây sẽ là nguồn nguyên
liệu phong phú cho công nghiệp chế biến thủy, hải sản.
Bình Định có 04 sông lớn là sông Kôn, sông Lại Giang, sông La Tinh và
sông Hà Thanh, hiện có khoảng 135 hồ tự nhiên và nhân tạo với tổng diện
tích 38.000ha chuyên dùng để cung cấp nước cho các loại cây trồng. Hệ
thống mạng lưới các sông suối tập trung nhiều ở miền núi tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển thủy lợi và thủy điện; tổng trữ lượng nước
khoảng 5,2 tỷ m3; tiềm năng thủy điện khoảng 182,4 triệu kW. Bình Định
đã xây dựng và thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh giai đoạn
2006 - 2010 có xét đến tới 2015 với mục tiêu 100% số xã có điện, trong
đó 97% số xã được cấp điện lưới quốc gia, 98% số thôn có điện. Những năm
qua đã tranh thủ nguồn vốn WB đầu tư trung áp, hạ áp, đến nay 100% xã
có điện lưới (trừ xã đảo Nhơn Châu) và có trên 99% số hộ dùng điện. Thực
hiện việc chuyển đổi mô hình, cấp phép hoạt động điện lực, vận hành
lưới điện hạ thế an toàn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng điện, giảm tổn thất điện năng, đảm bảo giá bán điện đến hộ dân
nông thôn.
Nhà máy nước Quy Nhơn được đầu tư nâng cấp có tổng công suất 45.000
m3/ngày đêm (sẽ tiếp tục tăng lên 48.000 m3/ngày đêm), hiện nay đã cấp
nước cho hơn 90% dân số và các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa
bàn TP Quy Nhơn và một phần Khu kinh tế Nhơn Hội. Công suất cấp nước cho
Khu công nghiệp Phú Tài: 8.500 m3/ngày đêm. Đang xây dựng công trình
cấp nước cho Khu kinh tế Nhơn Hội: 12.000 m3/ngày đêm (giai đoạn 1).
Đang hoàn thiện dự án cấp nước cho 9 thị trấn trong tỉnh với công suất
21.300 m3/ngày đêm.
Diện tích rừng hiện có trên 207.370ha. Trong đó rừng tự nhiên là
154.390ha, rừng trồng là 52.980ha (rừng sản xuất là 34.624ha); những năm
gần đây đã khai thác khoảng từ 6.000- 8.000m3 gỗ (góp phần đáp ứng nhu
cầu nguyên liệu cho chế biến gỗ xuất khẩu và tiêu thụ trong tỉnh khoảng
200.000m3). Ngoài ra, dưới tán rừng còn có song mây, lá nón, bời lời,
các loại lâm sản khác... là nguồn nguyên liệu phục vụ cho các cơ sở sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiêu dùng... Ngoài ra, đất đồi núi chưa
sử dụng trên 205.200ha, có thể phát triển trồng rừng nguyên liệu hoặc
trồng cây công nghiệp phục vụ cho công nghiệp chế biến lâm sản.
Về tiềm năng khoáng sản: Trên địa bàn tỉnh có nhiều loại khoáng sản quý
hiếm như đá granite ước tính khoảng 700 triệu m3 (trong đó có các loại
đá cao cấp như: Granosinite màu đỏ, Biotite hạt thể màu vàng... với trữ
lượng khoảng 500 triệu m3 tập trung nhiều ở An Nhơn, Tuy Phước, Quy
Nhơn…); quặng sa khoáng Titan trữ lượng khoảng 2,5 triệu tấn Ilmenite
nằm dọc theo bờ biển (tập trung ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ và xã Nhơn
Lý, thành phố Quy Nhơn). Lớn nhất là mỏ sa khoáng Đề Gi có trữ lượng
trên 1,5 triệu tấn, hiện đang được khai thác và tuyển tinh để xuất khẩu
(100.000-120.000 tấn quy Ilmenite/năm). Các mỏ vàng tập trung phân bố ở
các khu vực Vĩnh Kim, Vạn Hội, Kim Sơn, Tiên Thuận, trong đó mỏ Tiên
Thuận được đánh giá là có tiềm năng lớn nhất; mỏ Bauxit Kon Hà Nừng
thuộc trên địa bàn 02 tỉnh Bình Định và Gia Lai hiện đang được lập dự án
khả thi thăm dò, khai thác. Ngoài ra, còn có các mỏ cao lanh, đất sét
(tập trung ở các huyện Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn) trữ lượng đã thăm dò
khoảng 24 triệu m3; đủ để phục vụ cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng (gạch ngói, gạch ceramic...) trên địa bàn tỉnh.
Bình Định có 5 điểm nước suối khoáng nóng, trong đó điểm nước khoáng
Phước Mỹ có chất lượng nước cao để sản xuất nước giải khát; điểm nước
nóng Hội Vân đã được khai thác sử dụng từ năm 1976, được đánh giá các
tiêu chuẩn đặc hiệu chữa bệnh và có thể dùng để phát triển điện địa
nhiệt…
Hiện nay, Bình Định đã và đang tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ
đầu tư xây dựng theo quy hoạch 8 KCN (chưa tính các KCN trong KKT Nhơn
Hội) với tổng diện tích quy hoạch là 1.761 ha, 37 cụm công nghiệp với
tổng diện tích 1.519,37 ha, đặc biệt là Khu kinh tế Nhơn Hội (12.000 ha,
trong đó có 1.300 ha khu công nghiệp); tập trung xây dựng Thành phố Quy
Nhơn (đô thị loại I thuộc tỉnh) trở thành trung tâm tăng trưởng phía
Nam của vùng và đầu mối giao thông phục vụ trực tiếp cho khu vực miền
Trung - Tây Nguyên; xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng lớn để gắn
kết với các khu vực lân cận theo trục Bắc - Nam và Đông Tây; phát triển
các ngành kinh tế trọng điểm mà tỉnh có lợi thế là công nghiệp chế biến
lâm - nông - thuỷ sản, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây
dựng, giày da, may mặc, cơ khí, cảng biển nước sâu, sản xuất lắp ráp đồ
điện, điện tử, sản xuất điện, phát triển du lịch, dịch vụ hàng hải,
thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bưu chính, viễn thông....
Trong điều kiện kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn, ngân sách còn hạn
chế nhưng các lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn được chăm lo tốt hơn, góp
phần thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân.
Các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, thông tin – tuyên truyền, báo
chí, phát thanh - truyền hìnhtiếp tục được phát huy phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội và phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân
dân. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và từng bước
xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao của
một số môn có thế mạnh của tỉnh như võ thuật, điền kinh, bơi lội, bóng
đá… Hoạt động du lịch của Bình Định cũng hết sức sôi động. Số khách du
lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng tại Bình Định ngày càng tăng. Một số
doanh nghiệp tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng
phục vụ, đẩy mạnh nối kết tour du lịch với các tỉnh trong và ngoài
nước.
Hoạt động văn hoá thông tin đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ của nhân
dân, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống được chú trọng. Phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được tiếp tục phát triển,
hầu hết địa bàn dân cư được phủ sóng phát thanh và truyền hình. Mạng
Bưu chính tiếp tục đảm bảo cung cấp các dịch vụ và đáp ứng kịp thời
nhu cầu về chuyển phát thư, báo, các loại công văn giấy tờ, bưu
phẩm, bưu kiện cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức và nhân dân; tỷ lệ xã
có báo trong ngày khoảng 96%.
Giáo dục - đào tạo - dạy nghề phát triển mạnh về cơ sở vật chất, mở
rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác xã hội hoá giáo dục
được đẩy mạnh, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại đào tạo,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực. Toàn tỉnh
có 50 trường THPT, 142 trường THCS, 242 trường tiểu học và 192 trường
mầm non, với gần 350 ngàn học sinh; có 1 trung tâm GDTX cấp tỉnh và 10
trung tâm GDTX-HN, 4 trung tâm ngoại ngữ, tin học và 5 cơ sở tin học. Hệ
thống trung tâm học tập cộng đồng được xây dựng và hoạt động ngày càng
năng động. Tỉnh ta đã được Bộ GD-ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục
tiểu học và xóa mù chữ năm 1998, đạt phổ cập THCS năm 2004, đạt chuẩn
tiểu học đúng độ tuổi vào tháng 12.2005.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ đã tích
cực triển khai tốt công tác y tế dự phòng, kịp thời triển khai các biện
pháp khẩn cấp phòng chống dịch bệnh nguy hiểm, không để xảy ra dịch bệnh
lớn; công tác phòng chống dịch trên địa bàn tỉnh được quan tâm chỉ đạo
và giám sát chặt chẽ. Thực hiện tốt việc khoanh vùng dịch, tuyên truyền
vận động vệ sinh môi trường tại cộng đồng; chủ động điều tra, giám sát
dịch tễ, nhất là các dịch bệnh mới và nguy hiểm. Chuẩn bị sẵn sàng
thuốc, hóa chất, phương tiện, nhân lực và chủ động tích cực trong công
tác phòng chống dịch trong khắc phục hậu quả lũ lụt. Tăng cường công tác
khám chữa bệnh, nâng cao y đức, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục
vụ bệnh nhân gắn với nâng cao chất lượng chuyên môn, nâng cấp trang
thiết bị. Đến nay đã có 152/159 trạm y tế có bác sỹ (133 xã có bác sỹ
tại chỗ, 19 xã tăng cường) đạt tỷ lệ 95,6%, vượt 0,6% so với kế hoạch.
Thường xuyên đẩy mạnh công tác tư vấn về chăm sóc sức khoẻ sinh sản và
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. Thực hiện tốt Chương trình phòng
chống suy dinh dưỡng trẻ em; tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi
giảm xuống còn 17,27%, vượt 0,73% so với kế hoạch.
Hoạt động khoa học và công nghệ tập
trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng,
thế mạnh của tỉnh, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả
sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều tiến bộ
khoa học công nghệ được ứng dụng đem lại hiệu quả thiết thực như giống
mới, kỹ thuật canh tác phòng trừ dịch, hại tổng hợp, thay đổi mùa vụ, cơ
cấu cây trồng. Nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ trên một số
lĩnh vực công nghệ sinh học, kiểm định, đo lường chất lượng sản phẩm,
hàng hóa có cố gắng phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Với các điều kiện địa lý kinh tế, hạ tầng kỹ thuật cùng các cơ chế,
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế- xã hội, chính sách khuyến
khích đầu tư phát triển công nghiệp, Bình Định có đủ điều kiện để phát
triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng trong tương
lai./.
Ban biên tập (tổng hợp)
VĂN HÓA BÌNH ĐỊNH THỰC TRẠNG VÀ TƯƠNG LAI
Bình Định có một mạch nguồn văn hóa rất xa xưa, nếu nói phía Bắc có
nền văn hóa Đông Sơn, phía Nam có nền văn hóa Óc Eo thì Bình Định, trung
điểm của khu vực miền Trung có nền văn hóa Sa Huỳnh và nền văn hóa
Chămpa nổi tiếng. Thừa hưởng một mạch nguồn văn hóa phải nói là hết sức
đồ sộ và cổ xưa, trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước văn hóa
Bình Định vừa lan tỏa vừa tiếp thu những giá trị của các nền văn hóa
khác để bồi đắp, làm phong phú cho mình.
Người Bình Định rất đổi tự hào và luôn có ý thức bảo tồn, lưu giữ và
phát huy vốn văn hóa truyền thống của ông cha để lại, làm giàu cho cuộc
sống hôm nay. Ai đã một lần đến Bình Định chắc không bao giờ quên những
ngọn Tháp Chămpa cổ kính, xây dựng cách đây hàng mấy trăm năm nhưng vẫn
ngạo nghễ Trơ gan cùng tuế nguyệt, đẹp đến ngây ngất bởi lối
kiến trúc tinh xảo và chứa đựng nhiều huyền bí. Và trong cái nền của văn
hóa - văn minh cổ xưa ấy, đất Bình Định luôn luôn là nơi phát tích
những dòng, những trào lưu văn hóa hết sức độc đáo. Có nhiều ý kiến cho
rằng nghệ thuật tuồng đạt đến trình độ cổ điển, là vốn quý của dân tộc
đã phát triển rực rỡ trên mảnh đất Bình Định gắn với tên tuổi nhà soạn
tuồng xuất sắc Đào Tấn.
Dưới thời khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, ba anh em họ Nguyễn là Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sau khi quét sạch thù trong, giặc ngoài đã
xây dựng nền văn hóa Tây Sơn với tư cách như một cuộc cách mạng về văn
hóa, trong đó đề cao chữ Nôm mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển đi
liền với chủ quyền và độc lập dân tộc. Đầu thế kỷ XX trong dòng thơ văn
tiền chiến 1930 – 1945 với phong trào thơ mới, Bình Định cũng
được đánh giá là nơi bùng phát một trào lưu sáng tác cùng với những thi
hào xuất sắc như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Cù Huy Cận… Trải
qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, văn hóa Bình Định cũng
góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng quê hương đất nước. Còn
nhớ, những năm tháng hào hùng đó, cùng với phong trào Tiếng hát át tiếng bom, tiếng loa hòa tiếng súng
của cả nước, Ca kịch bài chòi và tuồng Bình Định đã từng vang lên khắp
vùng căn cứ kháng chiến và cả trong vùng địch hậu qua làn sóng phát
thanh của Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam, cổ vũ và
nuôi dưỡng những tâm hồn kháng chiến, đấu tranh vì độc lập tự do của dân
tộc v.v.
Những nét chấm phá của văn hóa Bình Định đã qua là như vậy nhưng những
gì của văn hóa Bình Định cho hôm nay và ngày mai là hết sức quan trọng,
cần phải được định ra cho văn hóa một hướng đi phù hợp với quy luật
phát triển xã hội, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bởi vì nói đến văn hóa tuy là động
lực phát triển kinh tế - xã hội nhưng văn hóa lại phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, cho nên đặt vấn đề văn hóa Bình Định với cái nhìn tương
lai thì văn hóa Bình Định cũng chịu sự ảnh hưởng của nền kinh tế của
tỉnh; vì vậy nhận định văn hóa Bình Định đi tới đâu, diện mạo như thế
nào trong tương lai là hết sức cần thiết. Thực ra, những vấn đề về văn
hóa của Bình Định mang tính chất chung nhất đã được định hướng trong các
Nghị quyết về văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà gần
nhất, cụ thể nhất là Nghị quyết Hội nghị lần 5 của Ban chấp hành TW Đảng
(khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cụ thể hóa của Nghị quyết này, UBND tỉnh Bình Định đã ban hành Đề án
chiến lược phát triển văn hóa thông tin đến năm 2010 và hàng loạt Đề án
khác nhằm thúc đẩy,cởi trói cho văn hóa - nghệ thuật phát
triển. Có thể nói hàng loạt các Chính sách, Đề án mới về văn hóa - nghệ
thuật được ban hành đã khuyến khích rất nhiều cho văn hóa Bình Định phát
triển; đó là những cái gậy để các nhà làm văn hóa đề ra cho mình một
hướng đi cụ thể, thiết thực theo hướng bảo đảm cho văn hóa vừa là mục
tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn một cách tổng quan thì văn hóa Bình Định không nằm ngòai định
hướng chung của văn hóa Việt Nam hoạt động trong cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khi đặt vấn đề cụ thể của
hướng đi nào để văn hóa Bình Định đi tới tương lai chắc chắn phải dựa
vào đặc điểm của vùng miền và thế mạnh Bình Định có. Văn hóa Bình Định
muốn có một cuộc bứt phá ngoạn mục thì phải bám sát vào cội rễ của văn
hóa truyền thống vốn rất phong phú và đa dạng, bởi đây là cái nền vững
chắc nhất. Phát triển văn hóa Bình Định, trước hết có lẽ phải đi từ hệ
thống di tích lịch sử văn hóa. Nghĩa là phải biết phát huy thế mạnh của
các di tích này để khai thác, giới thiệu những giá trị của chúng ra bên
ngoài. Theo thống kê chưa đầy đủ, Bình Định hiện nay có 260 điểm di tích
và danh thắng đang được quy hoạch. Trong số này, đến nay có trên 30 di
tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng, khoảng trên 50 di
tích được UBND tỉnh công nhận, còn lại đang được khảo sát, xây dựng hồ
sơ để xác định mức độ giá trị của từng di tích, ứng với cấp nào thì cấp
đó công nhận. Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Định
chứa đựng tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân Bình Định, phổ
biến nhất là các nhóm: di tích về văn hóa Chămpa xưa, di tích về Tây Sơn
- Nguyễn Huệ, di tích về kháng Pháp và Cách mạng, di tích kháng chiến
chống Mỹ và di tích thắng cảnh - danh lam.
Dòng văn hóa phi vật thể ở Bình Định vô cùng phong phú như: Hoạt động
lễ hội, hát bội (tuồng), nhạc võ Tây Sơn, ca kịch bài chòi, múa hát bá
trạo của cư dân miền biển… là những món ăn tinh thần đặc sắc không những
đối với nhân dân Bình Định mà nó còn là đặc sản để giới thiệu ra ngoài
tỉnh và khách quốc tế. Các lễ hội mang tính chất truyền thống và đậm
chất dân gian nếu được duy trì, phát huy cũng sẽ là bộ mặt văn hóa tương
lai của Bình Định như: Lễ hội chiến thắng Đống Đa (Tây Sơn), Lễ hội cầu
ngư (các xã ven biển), Lễ hội chợ Gò (Tuy Phước), Lễ hội văn hóa - thể
thao miền núi, Lễ hội văn hóa - thể thao miền biển… và vô số các lễ hội
mang tính chất tín ngưỡng và giàu tính nhân văn của ba dân tộc thiểu số
miền núi: Bana, Chăm, H’re sống trên đất Bình Định là mạch nguồn bồi đắp
nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Và dĩ nhiên các loại hình
văn hóa kể trên phải được nâng cao, cải biên cho phù hợp với nhu cầu
thẩm mỹ mới.
Văn học dân gian và văn học bác học ở Bình Định cũng là một thế mạnh
trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Điều đó được chứng minh đội ngũ
sáng tác hiện nay ở Bình Định ngày một đông, các lứa tuổi đều có; những
năm qua nhiều tác phẩm của họ đạt các giải cao trên nhiều lĩnh vực từ:
mĩ thuật, hội họa, thơ, nhạc cho đến nghệ thuật biểu diễn sân khấu
truyền thống. Văn học dân gian vẫn còn đây những nghệ nhân, những lớp kế
tiếp nối bước ông cha giữ gìn những câu hát đối đáp, những miếng biểu
diễn tuồng hay, những bài dân ca và hát bài chòi cổ, cùng với những trò
chơi dân gian trong các lễ hội, những phong tục tập quán tốt đẹp của
người Bình Định mãi mãi điểm tô cho bộ mặt văn hóa Bình Định.
Văn hóa Bình Định tương lai còn biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa
của các vùng miền trong cả nước và nhân loại; sở dĩ đề cao việc tiếp
thu cái hay, cái đẹp của văn hóa các vùng khác cũng là yêu cầu không thể
thiếu ở bất cứ một dòng văn hóa nào khi muốn tồn tại và phát triển. Văn
hóa Bình Định có hội nhập với thế giới bên ngoài hay không thì yếu tố
tiếp thu, bồi đắp, tiếp biến làm phong phú cho mình là rất quan trọng.
Trong thế giới của thời kỳ đại công nghiệp, văn hóa Bình Định không
những vừa giữ cho mình một nét riêng như Huế có ca múa Cung đình, đồng
bằng Bắc bộ có chèo, Nam bộ có cải lương, Tây nguyên đàn T’rưng v.v. mà
còn phải bảo đảm sự hòa đồng trong nền văn hóa đa sắc màu nhưng thống
nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, để có một vùng văn hóa phát triển, Bình Định cũng đang gặp
nhiều khó khăn thử thách. Đó là những mặt trái của cơ chế thị trường,
một khi phải hạn chế những tư tưởng đề cao đồng tiền và danh lợi hoặc
thương mại hóa văn hóa. Những khó khăn thử thách này, thực tế những năm
vừa qua, Bình Định cũng đã gặp phải và đang cố gắng hạn chế không để
chúng làm cản trở trong sự phát triển chung của văn hóa Bình Định.
Ngày nay với các chính sách chiêu hiền đãi sĩ của UBND tỉnh, tầng lớp
trí thức, đội ngũ làm công tác văn hóa - nghệ thuật ở Bình Định ngày một
trưởng thành. Đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tạo nên vóc dáng
văn hóa Bình Định trong tương lai. Đó sẽ là động lực thúc đẩy một cách
trực tiếp cùng cả nước tiến tới xây dựng một nền văn hóa Việt Nam, tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chuẩn bị cho mình hành trang tốt nhất đi
vào thế kỷ XXI .
Ban biên tập (tổng hợp)
LỊCH SỬ BÌNH ĐỊNH
Khác với Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, ở Nam Trung Bộ, loại hình di tích đá
cũ vẫn chưa được tìm thấy, mà mới chỉ phát hiện được các di tích đá mới
tiếp sau văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, nhưng cũng rất ít. Cho đến nay mới
chỉ phát hiện và khai quật được một di chỉ duy nhất thuộc giai đoạn này
ở ven biển tỉnh Quảng Nam. Bình Định cũng là tỉnh nằm trong dải đất Nam
Trung Bộ, nhưng cũng chưa thấy có di tích nào thuộc giai đoạn sơ kỳ đá
mới, mà mới chỉ phát hiện được di tích ở giai đoạn hậu kỳ đá mới và
những hiện vật mang đặc trưng của giai đoạn này là một vài chiếc rìu bôn
phát hiện được một cách ngẫu nhiên ở khu vực Hoài Nhơn và Vân Canh,
phát hiện này chưa được thẩm định nghiên cứu. Cho nên, có thể nói văn
hóa thời tiền sử và sơ sử Bình Định chỉ, có từ giai đoạn sơ kỳ đến hậu
kỳ trong giai đoạn kim khí. Đại diện cho nền văn hóa trong giai đoạn này
là “Văn hoá Sa Huỳnh”.
Từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVII, trên dải đất miền Trung Việt
Nam đã hình thành một Nhà nước Cổ đại, đó là Nhà nước Chămpa. Nhà nước
Chămpa được xây dựng trên một nền tảng được kế thừa thành tựu văn hóa Sa
Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung
Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác trong khu vực. Dân tộc
Chăm trong suốt 16 thế kỷ, khởi nguồn từ năm 192 và kết thúc vai trò
lịch sử của nó đã để lại một nền văn hóa riêng, độc đáo, góp phần làm
giàu kho tàng văn hóa của nhân loại và cũng như cộng đồng các dân tộc
Việt Nam sau này.
Bình Định nằm ở trung tâm của dải đất miền Trung với gần 5 thế kỷ giữ
vai trò trung tâm của đất nước, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, nhưng
văn hóa Chămpa ở đây vẫn phát triển đến khi vùng đất này mất vai trò
trung tâm của nó, dấu tích văn hóa còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng
về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng không
thể bỏ qua với những người nghiên cứu về văn hóa Chămpa nói chung và
giai đoạn Vijaya nói riêng.
Từ năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho lập phủ Hoài Nhơn -lãnh thổ chỉ đến
đèo Cù Mông: "Phủ Hoài Nhơn lệ vào Quảng Nam thừa tuyên, nhưng từ núi
Cù Mông về nam vẫn là người Man, người Lạo ở, chưa có thì giờ để kinh lý
đến".
Sau khi trở về kinh đô Thăng Long, tháng 7 năm Hồng Đức thứ 2 (1471),
vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành mới chiếm đặt Quảng Nam Thừa
tuyên và vệ Thăng Hoa, đặt 3 ty để trông coi việc dân, việc nước ở
Quảng Nam Thừa tuyên.
Các làng xã từ đó cũng được hình thành. Lúc mới thành lập, 3 huyện của
phủ Hoài Nhơn có 33 xã: Bồng Sơn:7 xã, Phù Ly: 8 xã, Tuy Viễn: 18 xã.
Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên Nam dư hạ tập cho
biết: dưới thời Hồng Đức, phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và hơn 100 xã: huyện
Bồng Sơn có 7 tổng, 32 xã; huyện Phù Ly có 6 tổng, 60 xã; huyện Tuy Viễn
có 6 tổng...
Tháng 8 năm Mậu Ngọ (1498), nhà Lê cho đặt các sở hiệu của 3 vệ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn thuộc đô ty Quảng Nam.
Sau một thế kỷ mở đất, người Việt đã vào lập làng ở các vùng đất của phủ Hoài Nhơn nay là tỉnh Bình Định.
Các chúa Nguyễn xuất hiện trong lịch sử Việt Nam lúc đầu gắn với vùng
đất Thuận Hoá, sau đó là Quảng Nam rồi phát triển lập nên xứ Đàng
Trong.
Tháng 11 năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn nhậm
Thuận Hoá. Năm 1570, vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá
Quýnh về trấn thủ Nghệ An. Chúa Nguyễn Hoàng được kiêm lãnh hai xứ Thuận
Hoá, Quảng Nam. Xứ Quảng Nam vào thời điểm Nguyễn Hoàng cai trị có 3
phủ, 9 huyện; phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang. Phủ
Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhơn có 3
huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Chúa Nguyễn Hoàng đeo ấn Tổng trấn
tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa.
Để nắm thêm tình hình phủ Hoài Nhơn, năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho
mời khám lý phủ Hoài Nhơn Trần Đức Hoà (bấy giờ gọi là Cống quận công,
con của Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân - Phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết
kiến. Trần Đức Hoà được chúa đãi rất hậu, sau đó, chúa trở về Thuận
Hoá.
Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn.
Năm 1651, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Quy Nhơn
thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ
là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn.
Đàng Trong thế kỷ XVII là nạn nhân của sự bột phát khốc liệt của cuộc
chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Để tồn tại trong thế đối trọng với Đàng
Ngoài, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải ra sức mở mang phát triển lãnh
thổ và kinh tế. Chiến tranh chấm dứt (1672), Đàng Trong khẳng định được
mình qua những thập kỷ lớn mạnh, trưởng thành và thử thách. Các chúa
Nguyễn đã thắng khi chặn được quân Trịnh với sức áp đảo từ phía bắc Sông
Gianh, thu phục được người Miên, người Hoa để mở cõi về phía nam và đưa
dân vào sinh sống, làm ăn ở vùng Đồng Nai, Gia Định. Nhưng các chúa
Nguyễn cũng chuẩn bị đương đầu với một nguy cơ mới nảy sinh trong lòng
xã hội Đàng Trong, đó là các cuộc khởi nghĩa của người nông dân - vốn là
nạn nhân của chế độ phong kiến. Họ là những di dân vào Thuận- Quảng làm
ăn nên đã đồng tình với các chúa Nguyễn, đánh Trịnh để bảo vệ quê
hương, bảo vệ thành quả lao động và cuộc sống của mình. Sau chiến tranh,
các chúa Nguyễn tiếp tục gia tăng cường độ bóc lột qua các chính sách
thuế má, phu dịch để xây dựng dinh phủ, nuôi sống bộ máy cai trị; một
bộ phận quan chức trở nên nhũng lạm, xa hoa, xã hội với nhiều mâu thuẫn
nảy sinh. Phủ Quy Nhơn là một trong những nơi chịu áp bức bóc lột nặng
nề nhất. Nông dân, thương nhân, các dân tộc ít người đều căm phẫn tột
độ. Năm 1695, một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng Phú đã liên kết với
thương nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh thuyền, vũ khí
khởi nghĩa chống chúa Nguyễn. Thế kỷ XVIII, cuộc khởi nghĩa của Lía ở
phủ Quy Nhơn đã nói lên một khí thế đấu tranh quyết liệt của người nông
dân chống địa chủ và cường quyền áp bức. Đó là khúc nhạc dạo đầu của bản
anh hùng ca hoành tráng của các thủ lĩnh nông dân Tây Sơn khi Nguyễn
Nhạc đã tụ nghĩa ở đất Tây Sơn với những người có nghĩa khí, chống áp
bức đã dấy lên cuộc khởi nghĩa (1771) làm rung chuyển cả cơ đồ của chúa
Nguyễn ở Đàng Trong.
Nguyễn Nhạc đã thành công hơn Lía và các thủ lĩnh nông dân khác ở Đàng
Ngoài khi chọn được căn cứ địa ở vùng Tây Sơn thượng đạo an toàn, bí
mật, vững chắc, được nhiều tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Nông dân nghèo,
hào phú, thương nhân, các dân tộc ít người... ra sức ủng hộ. Nguyễn Nhạc
có nghệ thuật thu phục lòng người, có nghĩa cử với dân nghèo nên đã
đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi có ý nghĩa trong buổi đầu của phong
trào Tây Sơn.
Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn mở rộng căn cứ xuống vùng Tây
Sơn hạ đạo, lấy ấp Kiên Thành, sinh quán các thủ lĩnh Tây Sơn làm đại
bản doanh. Năm đó, Nguyễn Nhạc quyết định cho nghĩa quân đánh chiếm phủ
thành Quy Nhơn, nay ở Châu Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Nhờ
mưu lược của Giáo Hiến, mạo hiểm của Nguyễn Nhạc, sự đồng lòng của các
tướng lĩnh và nghĩa quân, Nguyễn Nhạc đã cho nghĩa quân đánh chiếm phủ
thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành trốn. Nguyễn Nhạc
cho nghĩa quân đánh chiếm kho Càn Dương và Đạm Thủy. Phủ Quy Nhơn hoàn
toàn thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.
Quân Tây Sơn chọn màu đỏ làm cờ nghĩa, lấy dân nghèo làm lực lượng đấu
tranh và mục tiêu phục vụ, lấy công bằng xã hội làm phương châm. Đối
tượng cuộc đấu tranh là bọn địa chủ, quan lại bóc lột hà hiếp nhân dân.
Quân Tây Sơn đến đâu các hào kiệt đều theo về, dân chúng nô nức hưởng
ứng, uy thế ngày mỗi tăng.
Bình Định là quê hương của các lãnh tụ Tây Sơn, là căn cứ địa của cuộc
khởi nghĩa, là nơi xuất phát phong trào rồi trưởng thành, phát triển ra
toàn quốc, là đất Kinh đô Hoàng đế Thái Đức và là chiến trường ác liệt
dài ngày giữa quân đội Tây Sơn thời Cảnh Thịnh với quân Nguyễn Ánh.
Trong 32 năm (1771-1802), nhân dân Bình Định đã theo Tây Sơn: là lãnh
tụ, là tướng lĩnh cao cấp, là quan chức, binh sĩ cùng mọi tầng lớp nhân
dân đã cống hiến hết mình cho trang sử hào hùng của dân tộc thời Tây
Sơn. Trí tuệ, tài năng, sức người, sức của của nhân dân Bình Định đã
đóng góp cho sự nghiệp Tây Sơn là vô bờ bến, sử sách không thể ghi hết
và cũng chưa ai có điều kiện biên chép, tổng kết. Nên cố gắng này chỉ là
mở đầu cho một việc làm to lớn, lâu dài, khó khăn và nhiều ý nghĩa nói
trên.
Trong buổi đầu khởi nghĩa, sự đóng góp của nhân dân phủ Quy Nhơn vô
cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của phong trào Tây Sơn ở
một chặng đường khó khăn nhất, bước ngoặt đưa phong trào Tây Sơn phát
triển ra cả xứ Đàng Trong.
Sau này, phong trào Tây Sơn phát triển ra toàn quốc cùng với thiên
tài Nguyễn Huệ, những người con ưu tú của phủ Quy Nhơn cũng góp phần
quan trọng tạo nên các chiến công đánh Nguyễn, đánh Xiêm ở Gia Định,
diệt Trịnh lật đổ nhà Lê ở Phú Xuân-Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân
Thanh xâm lược vào xuân Kỷ Dậu (1789).
Dưới triều Nguyễn, Bình Định là một trọng trấn ở phía nam Kinh thành.
Điều đó được thể hiện trong tổ chức hành chính và cai trị; chế độ quan
lại và phòng vệ ở miền núi và vùng biển; tổ chức giáo dục, thi cử văn
lẫn võ cho cả khu vực của các tỉnh từ Quảng Ngãi trở vào Bình Thuận.
Vốn là vùng đất đối trọng của triều Nguyễn nên các vua Nguyễn có chính
sách cai trị ở Bình Định rất hà khắc, cứng rắn nhằm ngăn chặn các cuộc
khởi nghĩa của nhân dân. Nhưng cũng không đè bẹp được ý chí, tinh thần
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân bị áp bức trong xã hội: hậu duệ của
triều Tây Sơn, nông dân, dân tộc ít người, tiểu quan chức...
Năm 1799, sau khi chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh cho đổi làm thành
Bình Định, sau đó đặt dinh Bình Định (1802). Năm 1819, đổi tên ấp Tây
Sơn - nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành ấp An Tây.
Dưới triều Nguyễn, tình hình xã hội ở Bình Định luôn biểu hiện những
mâu thuẫn và đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhất là phát hiện
các hậu duệ nhà Tây Sơn, các vua Gia Long, Minh Mạng đã dùng những biện
pháp trừng trị tàn ác. Bình Định luôn là mối bận tâm của triều đình Huế.
Bình Định là vùng "trọng điểm bình định" của triều Nguyễn đối với nhà
Tây Sơn, nhưng triều Nguyễn cũng phải thừa nhận tính khách quan về một
vùng đất có vị trí chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục đối với
các tỉnh miền Trung thuở đó, nên các vua Gia Long, Minh Mạng một mặt ra
sức trấn áp nhưng mặt khác lại mị dân thể hiện trong các chiếu dụ, ban
bố trong quan lại và nhân dân. Thiết lập phủ Quy Nhơn, dinh Bình Định
thời Gia Long, tổ chức lập lại địa bạ thời Minh Mạng với ý định làm thí
điểm cho cả nước. Triều Nguyễn còn tổ chức trường thi hương và mở
trường thi võ tại Bình Định để tuyển chọn nhân tài cho đất nước.
Dưới thời Nguyễn cũng hình thành đô thị Quy Nhơn và trở thành trung
tâm kinh tế của tỉnh Bình Định trong thế kỷ XIX; là xu thế phát triển
trong thời Pháp thuộc, có tác dụng to lớn trong thế kỷ XX
Hòa chung vào công cuộc chuẩn bị chống ngoại xâm của cả nước, nhân dân
Bình Định hăng hái theo lệnh triều đình Huế để tăng cường và chấn chỉnh
lực lượng quân sự địa phương. Những thanh niên, trai tráng khỏe mạnh,
kể cả những người theo đạo Gia tô cũng được thu nhận, còn những người
già yếu bị thải hồi khỏi quân ngũ. Các trạm, sở, phủ, huyện được triều
đình tiếp tế, cung ứng thêm vũ khí và lương thực. Các đồn, bảo, tỉnh
thành được điều động thêm lực lượng và tăng cường luyện tập quân sự. Sơn
phòng Nghĩa Định được khẩn trương củng cố và trở thành địa điểm tập
trung binh lực, lương thảo và đạn dược từ ở địa phương. Triều đình còn
điều động về Bình Định những quan lại có năng lực để lãnh đạo cuộc chiến
đấu ở đây.
Ngoài ra, ở vùng ven biển Bình Định, quân triều đình cũng chia nhau
đóng giữ những nơi hiểm yếu. Các cửa biển Tam Quan, An Dũ (thuộc huyện
Hoài Nhơn), Hà Ra (Phù Mỹ), Đề Gi (Phù Cát)... được tăng cường quân lính
đồn trú và các đội thủy binh... nhằm ngăn chặn quân Pháp từ biển đánh
vào. Ở Bình Định, có quân của cai cơ Tăng Doãn Văn, người làng An
Thường, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, vốn tham gia trong lực lượng của
Trần Xuân Soạn đóng ở Bắc Kỳ, được Tôn Thất Thuyết cử về giữ chức cai cơ
chỉ huy đội binh đóng ở đồn An Dũ. Trong đội quân của Tăng Doãn Văn còn
rất nhiều văn nhân và võ sư yêu nước như Đội Dung (người Phù Mỹ), Lê
Thức (người Hoài Ân), Lê Đạt (người Hoài Nhơn)...
Trong vòng 3 năm (1883-1885), ở Bình Định đã huy động được một đạo
quân ứng nghĩa hùng hậu. Ngoài quân sơn phòng, quân đồn trú trấn giữ các
cửa biển, lực lượng thân binh bảo vệ tỉnh thành, còn có lực lượng kháng
chiến của nhân dân, đó là đội quân hương binh, dân dũng. Cho đến khi
phong trào Cần Vương bùng nổ, lực lượng tham gia kháng chiến chống Pháp ở
Bình Định đã khá đông đảo, có tới hàng chục ngàn người cầm vũ khí hưởng
ứng lời kêu gọi chống Pháp của vua Hàm Nghi.
Mai Xuân Thưởng chọn vùng núi Lộc Đỗng (phía tây Phú Phong, nay thuộc
thôn Phú Hiệp, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) làm căn cứ kháng
chiến. Ông cho truyền hịch khắp nơi, vận động các tầng lớp nhân dân tập
hợp về Lộc Đỗng cùng lo việc đại nghĩa “Cần Vương”. Hưởng ứng lời kêu
gọi, các nhà hào phú tình nguyện đóng góp lương thực để chi dùng trong
quân, trai tráng rủ nhau kéo về Lộc Đỗng đầu quân ngày một thêm đông. Võ
tướng, văn thân như các ông Bùi Điền (người Phù Mỹ), Nguyễn Hóa, Trần
Trung và Trần Nhã (người Bình Khê), Nguyễn Can, Nguyễn Trọng Trì và Đặng
Thành Tích (người An Nhơn) đều ra giúp. Lực lượng kháng chiến suy tôn
Mai Xuân Thưởng làm Bình Tây Đại Nguyên Soái. Từ đây, lực lượng kháng
chiến ở Bình Định đã thống nhất thành một mối, phong trào vững mạnh bước
vào giai đoạn mới lập nên nhiều chiến công rực rỡ.
Trước sự lớn mạnh của phong trào Cần Vương Bình Định (làm chủ hầu hết
địa bàn Bình Định đồng thời mở rộng ảnh hưởng đến các tỉnh trung và nam
Trung Kỳ), triều đình Huế chỉ còn cách xin thực dân Pháp đưa viện binh
từ Sài Gòn ra Bình Định xúc tiến đàn áp phong trào.
Đàn áp xong phong trào Cần Vương ở Bình Định, thực dân Pháp cùng quân
đội triều đình tay sai củng cố lại chính quyền ở các tỉnh tả trực kỳ, bố
phòng cẩn mật đề phòng những cuộc khởi nghĩa mới có thể xảy ra.
Ở Bình Định, sau những nỗ lực chiến đấu chống Pháp đến cùng , đa số
nhân dân - những người ủng hộ và tham gia tích cực vào hai cuộc khởi
nghĩa trên - đã bị thực dân Pháp và vua quan nhà Nguyễn đàn áp, khủng bố
rất tàn khốc. Thế nhưng, người dân Bình Định vẫn không nản lòng, thối
chí, trái lại khi tổ chức Duy Tân Hội được sáng lập và phát huy ảnh
hưởng của Hội trên khắp ba miền đất nước, nhân dân Bình Định vẫn nhiệt
tình hăng hái tham gia, và họ tự hào được đóng góp cho phong trào một
người con ưu tú của quê hương, người anh hùng Tăng Bạt Hổ (Tăng Doãn
Văn).
Trong lúc phong trào Đông Du mà Tăng Bạt Hổgópphần sáng lập đang khởi
động mạnh, thì ngày 27.8.1907, Tăng Bạt Hổđột ngột quađời. Sựnghiệp cứu
nước cứu dân đang còn dởdang lại được những đồng chí của ôngtiếp nối.
Phong trào ngày càng phát triển và cóảnh hưởng rộng lớn trong dưluậnxã
hội. Thực dân Pháp và triều đình Huếhốt hoảng đối phó. Một mặt chúng
khủngbố, ngăn cấm phong trào Đông Du hoạt động, một mặt thỏa hiệp,
nhường cho Nhậtmột sốquyền lợi buôn bán ởĐông Dương, với điều kiện chính
phủNhật phải trụcxuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi đất Nhật.
Vì vậy, cuối năm 1908,phong trào Đông Du tan rã.
Phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân tuy khác nhau về phương thức
hành động, nhưng cũng cùng một con đường cách mạng theo khuynh hướng dân
chủ tư sản. Vì thế, mục tiêu công kích của phong trào Duy Tân cũng lại
là vua quan phong kiến thối nát, những phong tục tập quán và những tư
tưởng đạo đức phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, nhằm vận động
cải cách văn hóa, xã hội gắn liền với việc vận động lòng yêu nước, căm
thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang,
phong trào đã tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản với các yêu
cầu: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", hô hào chú trọng thực
nghiệp, lập hội kinh doanh, mở trường dạy học và tuyên truyền đời sống
mới".
Sau hàng loạt những cuộc bạo động vũ trang chống Pháp cuối thế kỷ XIX
không thành, khi ngọn gió dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn từ bên
ngoài dồn dập tràn vào đầu thế kỷ XX, nhân dân Bình Định háo hức tiếp
nhận một phương thức hoạt động cứu nước mới. Người châm ngòi cho phong
trào yêu nước theo phương thức mới bùng nổ ở Bình Định chính là Phan
Châu Trinh và những sáng lập viên của phong trào Duy Tân, như Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp...
Ngày 6.4.1908, nhân dân Bình Định nổi dậy biểu tình chống thuế. Sự
tham gia của Hồ Sĩ Tạo đã lôi cuốn nhiều nhân sĩ Bình Định hưởng ứng và
tham gia đông đảo, uy tín của phong trào ngày càng tăng. Nông dân các
phủ, huyện lớp do tổng, lý sở tại chỉ dẫn, lớp tự động rầm rộ kéo về
tỉnh thành ngày một thêm đông.
Cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Bình Định năm 1908 đã bị thực
dân Pháp dìm trong biển máu. Nhiều người con yêu nước của quê hương hoặc
bị giết, hoặc bị đày ra Côn Đảo. Thế nhưng, người dân Bình Định chưa
bao giờ chịu khuất phục. Trái lại, ngọn lửa căm thù vẫn còn âm ỉ cháy
trong lòng mỗi người dân Bình Định, và chỉ 8 năm sau, ngọn lửa đấu tranh
ấy lại có dịp bùng lên mạnh mẽ.
Trong những năm 1925-1927, hàng loạt cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định càng diễn ra sôi nổi.
Những cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân Bình Định khiến nhà cầm quyền Pháp và tay sai hốt hoảng.
Tháng 2.1928, được sự giúp đỡ của Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí hội Nam Kỳ tại Sài Gòn mà đại diện là Phan Trọng Quảng, Chi bộ
Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên ở Bình Định được
thành lập tại nhà ông Tôn Chất ở thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn).
Sự ra đời của chi bộ Cửu Lợi đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong
phong trào cách mạng Bình Định, đưa phong trào đi theo con đường của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Để có thể liên lạc thuận lợi với tổ chức Thanh Niên
Quảng Ngãi, chi bộ Cửu Lợi chọn công ty Kim Thạch ở Sa Huỳnh (Đức Phổ,
Quảng Ngãi), một hãng buôn do một số chí sĩ, thương nhân Hoài Nhơn và Sa
Huỳnh lập ra từ năm 1927, làm cơ sở liên lạc ở hai vùng.
Từ chi bộ đầu tiên ở Cửu Lợi, đến cuối năm 1928, đã có thêm các chi bộ
mới như chi bộ Thanh niên An Đỗ (Hoài Sơn), Tài Lương (Hoài Thanh),
Dĩnh Thạnh (Tam Quan). Từ các chi bộ này, cơ sở Thanh niên nhanh chóng
phát triển ra các làng Đại Hóa, An Thái (Tam Quan), Thành Sơn, An Sơn
(Hoài Châu), Châu Đê, Chương Hòa (Hoài Châu Bắc), Tường Sơn (Hoài Sơn),
Thanh Xuân (Hoài Hương), Bồng Sơn và Thiết Đính... Đến cuối năm 1928,
số hội viên Thanh niên Hoài Nhơn lên đến gần 40 người, và hàng trăm hội
viên quần chúng tích cực được tập hợp vào các hội: Nông dân, Phụ nữ,
Thiếu niên, Cứu tế đỏ... Giữa năm 1928, Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí hội Hoài Nhơn đặt được mối liên lạc chính thức với Kỳ bộ Việt
Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Trung Kỳ và Tỉnh bộ Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội Quảng Ngãi1.
Những biến chuyển đó đã tạo điều kiện chín muồi tiến tới thành lập
Huyện bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội để lãnh đạo chung
phong trào. Tháng 12.1928, Huyện bộ Hoài Nhơn được thành lập và Nguyễn
Trân được bầu làm bí thư.
Sau khi tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đẩy mạnh
hoạt động ở Hoài Nhơn được một thời gian ngắn, thì tổ chức Tân Việt cách
mạng Đảng cũng bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của mình vào Bình Định. Giữa
năm 1928, Ngô Đức Đệ, nguyên Ủy viên Tỉnh bộ Tân Việt Hà Tĩnh được Tổng
bộ Tân Việt cách mạng Đảng cử vào Bình Định xây dựng cơ sở Đảng. Tại
đây, tính đến cuối năm 1928, Ngô Đức Đệ đã xây dựng được những cơ sở Tân
Việt đầu tiên ở nhà máy Đèn, hãng Vận tải đường thủy, ga ra Trần Sanh
Thại, trường Quốc học (Quy Nhơn) và một số cơ sở được xây dựng tại
trường tiểu học và công sở ở các huyện An Nhơn, Phù Mỹ, Bồng Sơn...
Cuối năm 1928, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và chỉ
đạo phong trào toàn khu vực Trung Trung Bộ, Ban liên tỉnh Tứ Định của
Tân Việt cách mạng Đảng được thành lập (gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên và Kon Tum) do Ngô Đức Đệ làm bí thư.
Trong 2 năm 1928-1929, hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt đã tập hợp
đông đảo các tầng lớp nhân dân yêu nước vào mặt trận cách mạng và phát
động được quần chúng ở một số vùng như Trà Quang (Mỹ Quang, Phù Mỹ), Hảo
Thiện, Cửu Lợi, An Đỗ (Hoài Nhơn)…
Như vậy, cho đến cuối năm 1928, ở Bình Định đã xuất hiện hai tổ chức
tiền thân của Đảng: Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Cửu
Lợi, Hoài Nhơn (ra đời đầu năm 1928) và Tân Việt ở Quy Nhơn (năm 1928).
Hai tổ chức này đã giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt phong trào
yêu nước cách mạng ở Bình Định nhanh chóng chuyển từ khuynh hướng tư
sản sang một khuynh hướng mới tiến bộ - khuynh hướng vô sản, và định
hướng dần vào quỹ đạo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tạo tiền đề cần thiết
cho phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định tiếp tục phát triển như
vũ bão dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Tháng 10.1930, hai tổ chức Đảng của huyện Hoài Nhơn và thành phố Quy
Nhơn chính thức nối liên lạc với nhau, thống nhất các kế hoạch hành
động. Sự ra đời của các tổ chức Đảng thành phố Quy Nhơn và huyện Hoài
Nhơn không chỉ đánh dấu bước ngoặt lịch sử quyết định của phong trào yêu
nước của nhân dân Bình Định, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phong
trào đấu tranh của nhân các huyện tiến lên.
Nhìn chung, trong những năm 1932-1935, phong trào cách mạng ở Bình
Định gặp nhiều khó khăn và tổn thất, nhưng với một sự cố gắng vượt bậc,
những tổ chức cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh của quần chúng từng
bước được phục hồi và có những bước tiến triển đáng kể, bắt đầu bước vào
thời kỳ đấu tranh mới: đòi dân sinh, dân chủ.
Phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ trong thời kỳ 1936-1939 ở
Bình Định tuy bị thực dân Pháp tìm mọi cách cản trở, khủng bố, nhưng
chưa bao giờ nhân dân Bình Định nản lòng, lùi bước, ngược lại phong trào
ngày càng sôi động và gặt hái được nhiều kết quả có ý nghĩa. Sự lớn
mạnh, trưởng hành của phong trào là những chuẩn bị thiết thực cho nhân
dân Bình Định cùng nhân dân cả nước bước vào một thời kỳ mới với những
thắng lợi mới: Thời kỳ trực tiếp đấu tranh cách mạng giành chính quyền
về tay nhân dân.
Ngày 3.9.1945, 30.000 đại biểu Việt Minh toàn tỉnh và đồng bào các
giới, dân tộc, các tôn giáo cùng nhân dân thành phố Quy Nhơn, với hơn
1.000 tự vệ cứu quốc và tự vệ sắt tham gia cuộc mít tinh chào mừng thắng
lợi của cuộc khởi nghĩa toàn tỉnh tại sân vận động Quy Nhơn. Tại đây,
Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời mới của tỉnh Bình Định, lấy tên là
tỉnh Tăng Bạt Hổ, được thành lập, do đồng chí Trần Quang Khanh làm Chủ
tịch.
Như vậy, sau 15 năm hoạt động kiên cường, không mệt mỏi, Đảng bộ và
nhân dân Bình Định đã làm nên một cơn bão táp cách mạng vĩ đại, cuốn
trôi bộ máy chính quyền thống trị của đế quốc, phát xít và phong kiến.
Thắng lợi này đã kết thúc chặng đường đấu tranh đầy gian khổ nhưng quang
vinh của nhân dân Bình Định, đồng thời mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ
đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Suốt chặng đường lịch sử 60 năm (1885-1945), phong trào yêu nước chống
Pháp của nhân dân Bình Định trải qua ba giai đoạn với màu sắc, quan
điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương chính trị khác nhau: ngọn cờ Cần
Vương chống Pháp của giai cấp phong kiến cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu
nước mang màu sắc dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, cao trào giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo từ 1930 đến 1945. Đây là những làn sóng nối tiếp
nhau dồn dập đánh vào thành trì của chế độ thực dân-phong kiến, mà lớp
sóng sau mạnh mẽ hơn lớp sóng trước gấp bội lần.
Tuy các phong trào đấu tranh yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến những
thập niên đầu thế kỷ XX đều bị thực dân Pháp đàn áp và dìm trong bể máu,
nhưng nhân dân Bình Định vẫn không hề chịu khuất phục. Từ khi có ánh
sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga soi đường, đặc
biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Bình
Định đã cùng nhân dân toàn tỉnh liên tục vùng dậy đấu tranh kiên cường
trong suốt 15 năm trời. Trải qua những thử thách từ cao trào 1930-1931,
giai đoạn hồi phục lực lượng 1932-1935, đến cuộc vận động dân chủ
1936-1939, rồi cao trào cứu nước giải phóng dân tộc 1939-1945, cuối cùng
Đảng bộ và nhân dân Bình Định cũng hoàn thành mục tiêu độc lập - tự do
gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách
mạng Tháng Tám 1945.
Chín năm kháng chiến lâu dài, gian khổ và anh dũng đã kết thúc thắng
lợi vẻ vang. Nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã trải qua
ba thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy cam go, nhưng vô cùng sôi nổi và
mãnh liệt:
- Mười sáu tháng (từ 8.1945 đến 12.1946) xây dựng chế độ mới, cuộc
sống mới, bảo vệ chính quyền cách mạng và chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu
dài.
- Năm năm (1947-1952) xây dựng và bảo vệ vùng tự do, thực hiện nhiệm vụ phối hợp với các chiến trường.
- Giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (1953-1954) thực hiện chiến cuộc
Đông Xuân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt để giành thắng lợi hoàn
toàn.
Bình Định là một tỉnh có vị trí chiến lược cả về kinh tế và quốc
phòng. Ở đây có một hệ thống đường giao thông phong phú: đường chiến
lược 19, đường sắt xuyên Việt và Quốc lộ 1, có thành phố cảng Quy Nhơn
và sân bay. Những thế núi hiểm trở chẳng những có giá trị chiến thuật,
chiến dịch mà cả về chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Pháp lâu
dài.
Từ những yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", chiến trường Bình
Định là địa bàn vừa thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển, vừa
thuận lợi cho tác chiến tập trung của các binh đoàn chủ lực. Và cũng
chính vì vị trí chiến lược, đặc điểm của địa bàn mà thực dân Pháp xem
Bình Định là mục tiêu trọng điểm để tiến công đánh chiếm vùng tự do của
ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên đất Bình Định
là thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành, bắt nguồn từ đường lối
chiến lược, phương châm, phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo của
Đảng, kết hợp sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
cuộc chiến tranh nhân dân mang tính cách và bản sắc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy khu V, chín năm
kháng chiến đầy hi sinh, gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Bình Định đã đạt
được những kết quả đáng tự hào: Đó là đã đánh bại âm mưu lấn chiếm của
địch, giữ vững Bình Định là tỉnh tự do trong suốt thời gian kháng chiến,
xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thành tỉnh có tiềm lực
lớn mạnh của Liên khu V trong chiến tranh. Đảng bộ và nhân dân Bình Định
cũng đã huy động một khối lượng khá lớn về nhân tài vật lực vừa cho
công cuộc kháng chiến của tỉnh, vừa làm nhiệm vụ hậu phương đối với cả
chiến trường Liên khu V; đồng thời Đảng bộ đã xây dựng được một đội ngũ
cán bộ, Đảng viên kiên cường, xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Những
thành quả trên thể hiện Bình Định đã biết vượt qua biết bao nhiêu khó
khăn gian khổ, vừa chiến đấu, vừa xây dựng để hoàn thành tốt nhiệm vụ
như lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với đặc điểm là một tỉnh thuộc vùng tự do, Đảng bộ Bình Định đã biết
tập trung xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, bảo đảm
cuộc sống cho nhân dân để kháng chiến lâu dài, đồng thời biết động viên
sức mạnh tổng hợp nhân tài vật lực cho tiền tuyến, làm tròn nhiệm vụ hậu
phương của chiến trường Liên khu V và Tây Nguyên, chi viện cho Lào và
Campuchia.
Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong quá trình kháng chiến
được khẳng định một cách tuyệt đối trong việc giáo dục, đoàn kết, tổ
chức, phát huy sức mạnh quần chúng về mọi mặt quân sự - chính trị - kinh
tế. Nó đã được cụ thể hóa bằng những chủ trương, chính sách, việc làm
cụ thể của tỉnh, sự sáng tạo trong cả quá trình kháng chiến. Các cấp ủy
Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về tư tưởng,
chính trị và tổ chức mà trước hết là xây dựng chi bộ cơ sở vững mạnh.
Bài học quý giá được rút ra từ công tác xây dựng Đảng là bất kỳ ở thời
kỳ nào và ở đâu, nếu Đảng biết bám sát dân, sống trong lòng nhân dân,
được nhân dân tin yêu, đùm bọc, bảo vệ, thì dù gian khổ mấy, cách mạng
cũng giành được thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và giữ vững trọn vẹn
vùng tự do của Đảng bộ và nhân dân Bình Định là một trang sử vẻ vang
trong truyền thống yêu nước và cách mạng lâu dài của nhân dân Bình Định.
Trải qua cuộc chiến đấu một mất một còn, ròng rã hơn 20 năm kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, lâu dài, khốc liệt, hy sinh gian khổ nhưng rất
hào hùng, anh dũng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trực
tiếp là Tỉnh ủy Bình Định, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết một lòng
phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, của vùng đất “Địa linh nhân liệt”,
thượng võ, quật khởi, quê hương của vị anh hùng dân tộc Quang Trung -
Nguyễn Huệ. Truyền thống đó tiếp tục được nhân lên và phát huy cao độ
trong mọi tình huống khó khăn nhất. Quân và dân trong tỉnh đã vượt qua
mọi thử thách, chịu dựng mọi ác liệt, hy sinh để hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ mà Đảng và Bác Hồ kính yêu giao phó, góp phần đánh bại các âm
mưu, thủ đoạn xảo quyệt và làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm
lược của Mỹ, kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh có một không hai trong
lịch sử. Mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất Tổ
quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên cạnh truyền thống yêu nước của nhân
dân Bình Định, còn thể hiện sự vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân
cách mạng của Đảng vào điều kiện cụ thể từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể
ở từng địa phương, địa bàn chiến lược, đánh đổ từng đối tượng kẻ thù
của cách mạng một cách linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời nắm bắt kịp
thời tình hình địch, tình hình quần chúng nhằm khắc phục những khuyết
điểm, lệch lạc, không ngừng củng cố và tăng cường xây dựng lực lượng của
cách mạng. Coi trọng công tác giáo dục, vận động, tập hợp, đoàn kết,
phát huy trí tuệ của quần chúng trong các cuộc đấu tranh quân sự, chính
trị, binh địch vận, xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến, phục vụ
chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng giặc Mỹ xâm
lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Bình Định,
một lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của toàn dân, là cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện về quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
với tinh thần tự lực, tự cường; đồng thời có sự chi viện, hỗ trợ của
Trung ương và các tỉnh lân cận và trong cả nước, đặc biệt là Đảng bộ và
nhân dân Hà Tĩnh kết nghĩa.
Nhìn lại từ quá khứ xa xưa, chúng ta tự hào về Bình Định -
nơi sớm sản sinh ra nền văn hoá lớn của cư dân cổ Sa Huỳnh, mang đậm
nét đặc trưng của thời đại kim khí, đã để lại nhiều di tích phong phú,
các công cụ sản xuất bằng đồ sắt, đồ trang sức bằng đá quý và thuỷ tinh
đặc sắc v.v... những trống đồng Đông Sơn cũng đã được tìm thấy ở đây
chứng tỏ thời đó đã có sự giao lưu văn hoá rộng lớn giữa các vùng của
đất nước.
Bình Định còn là nơi chứng kiến sự phát triển, lụi tàn của quốc gia cổ
Chămpa - một vương quốc có nhiều thăng trầm song cũng không tránh khỏi
số phận tồn vongcủa lịch sử. Cái tên Chămpa chỉ còn như một tên riêng
của một dân tộc Chăm gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Vương quốc Chămpa xưa, nay còn để lại những di tích khảo cổ học, nhiều
thành cổ, điêu khắc cổ và kiến trúc đền tháp nổi tiếng, cổ kính, uy
nghi. Các di tích được các nhà khảo cổ phát hiện ở nhiều nơi trên đất
Bình Định phong phú, đa dạng về chủng loại, tinh xảo về kỹ thuật, gồm
các đồ gốm sứ phục vụ cho cuộc sống cộng đồng, giao lưu, trao đổi hàng
hoá ngoài khu vực và các nước phụ cận.
Bình Định có thành Đồ Bàn tồn tại gần 5 thế kỷ mà sau đó là thành Hoàng Đế thời Tây Sơn - Nguyễn Nhạc.
Thế kỷ XV, đất nước Chămpa đầy biến động bởi sự nội biến bên trong v
xung đột bên ngoài. Vua Lê Thánh Tông đã có thời cơ để chấm dứt nạn
tranh chấp này vào năm 1471. Từ đó, đất Bình Định trở thành một bộ phận
của nước Đại Việt.
Nhà Lê đã cho lập Thừa tuyên Quảng Nam tạo cho phủ Quy Nhơn thời chúa
Nguyễn một nội lực kinh tế phát triển, một thế đứng vững chắc để mở nước
về phía nam.
Với một tầm nhìn chiến lược, với chính sách thông thoáng trong việc
thu nạp hiền tài (trường hợp của Lương Văn Chánh, Đào Duy Từ...) cùng
với việc khuyến nông, các chúa Nguyễn đã có chính sách tích cực trong
việc di dân, khai phá, lập làng, tạo cho phủ Quy Nhơn hình thnh nhiều
làng xã trù phú, canh tác nông nghiệp phát triển. Phủ Hoài Nhơn (Quy
Nhơn) trở thành bệ phóng cho công cuộc mở đất vào Phú Yên và từ đây, thế
Thuận - Quảng vững mạnh về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh
quốc phòng, đủ sức đương đầu với quân Trịnh ở phía bắc.
Bên cạnh những yếu tố tích cực trên của phủ Quy Nhơnthờicác chúa
Nguyễn, nhưng dần dần do sự phân hoá bất công trong xã hội ngày càng
tăng khiến cho mâu thuẫn ngày một gay gắt giữa tầng lớp lao động và giai
cấp thống trị, đã nảy sinh những cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ hà
khắc đương thời. Mở đầu là những cuộc nổi dậy của Linh Vương và Quảng
Phú (1695) rồi của Lía, sau đó các cuộc khởi nghĩa có tổ chức, quy mô
thành phong trào rộng lớn, đại diện cho giai cấp nông dân Việt Nam đứng
lên chống cường quyền, áp bức; nhất là khi có giặc ngoại xâm đã nhanh
chóng trở thành một phong trào giải phóng dân tộc lan toả khắp đất nước.
Đó là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn xuất phát từ vùng núi An Khê của phủ Quy
Nhơn.
Dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ với đội ngũ tướng lĩnh ti ba,
trí dũng, kiên cường, cùng sự đóng góp của nhân dân Bình Định và nhân
dân cả nước đã dập tắt nạn cát cứ, nội chiến Trịnh - Nguyễn kéo dài trên
hai thế kỷ; đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở phía nam, 29 vạn quân Thanh xâm
lược ở phía bắc, giải phóng dân tộc, lập lại nền độc lập thống nhất đất
nước.
Thời đại Tây Sơn với những chiến công hiển hách, vang dội làm nhiều
nước trên thế giới phải kính nể. Đó là niềm tự hào của nhân dân Bình
Định - quê hương của phong trào Tây Sơn, của các anh hùng áo vải cờ đào
và của mỗi một người dân Việt Nam. Những đóng góp, cống hiến của thời
đại Tây Sơn còn để lại cho muôn đời sau về binh pháp thiên tài, các bài
võ, đường quyền, những áng văn thơ tuyệt tác, một kho tàng văn hoá chữ
Nôm đồ sộ và văn học dân gian phong phú mà chúng ta mãi trân trọng, giữ
gìn.
Dưới thời Nguyễn, Bình Định được triều đình Huế rất chú tâm về việc tổ
chức cai trị cũng như về kinh tế, xã hội, nhất là vào đầu thời kì vua
Nguyễn. Vì nơi đây - vốn là đất của triều Tây Sơn, đã diễn ra cuộc chiến
tranh khốc liệt lâu ngày, bị tàn phá nặng nề và là nơi cịn tồn tại
nhiều mu thuẫn nn một mặt cần trấn áp nhưng mặt khác cũng phải thu phục
lòng dân. Vì vậy, Bình Định được coi là trọng trấn của Triều đình, rồi
trở thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung ương Huế (1832).
Với việc lập lại địa bạ vào năm 1839 đã loé lên một niềm tin đấu tranh
về quyền lợi chính đáng của người dân Bình Định đối với Triều đình mà
đòi hỏi Nhà nước cần phải chia sẻ, quan tâm để giảm bớt sự bất công
trong các tầng lớp địa chủ và dân nghèo, trong đó có sự đóng góp của
Tổng đốc Võ Xuân Cẩn và các quan lại địa phương. Tuy cuộc cải cách này
cuối cùng thất bại nhưng đã để lại bài học kinh nghiệm về chính sách
ruộng đất và đấu tranh của nhân dân cho cc đời sau.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, Quy Nhơn được chúng xem là cảng khẩu
quan trọng của miền Trung và Tây Nguyên để thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa. Từ giữathế kỷ XIX, Bình Định bắt đầu chuyển mình để phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và trào lưu yêu nước diễn ra
mạnh mẽ khắp nơi trong tỉnh, đặc biệt khi đô thị Quy Nhơn ra đời.
Với phong trào Cần Vương, nhân dân Bình Định đã hưởng ứng lời kêu gọi
của vua Hàm Nghi, đứng lên đánh giặc cứu nước. Phong trào kháng Pháp ở
Bình Định diễn ra mạnh mẽ lan rộng trong cả tỉnh và liên kết với các
tỉnh lân cận, đã làm cho bộ máy cai trị của Pháp và tay sai ở Bình Định
khốn đốn, lung lay.
Tuy các cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định bị đàn áp khốc liệt
nhưng đã khơi dậy trong quần chúng một truyền thống quật cường, một tinh
thần yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc cao độ đã buộc địch phải nhiều
phen khốn quẫn, lao đao.
Phong trào Cách mạng Việt Nam đã chuyển mình và khởi sắc từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930.
Các tổ chức Đảng Cộng Sản ở Bình Định tại các huyện, xã, thị xã Quy
Nhơn đã nắm bắt phong trào, lập các cơ sở Cách mạng lúc hoạt động công
khai, lúc rút vào hoạt động bí mật, đã lãnh đạo phong trào Cách mạng của
tỉnh giành được nhiều thắng lợi trong đấu tranh chính trị, vũ trang...
đi đến giành được chính quyền về tay nhân dân vào Tháng 8 năm 1945.
Cùng với tình hình chung của Cách mạng toàn quốc, Cách mạng Bình Định
cũng trải qua các thời kỳ gian khổ và cực kỳ ác liệt trong 9 năm kháng
chiến chống Pháp (1945-1954).
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh tỉnh, các đoàn thể yêu nước
được ra đời để đáp ứng tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, quyết
tâm đẩy lùi nạn giặc đói, giặc dốt, chiến thắng giặc ngoại xâm, hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng quê hương, góp phần vào công cuộc giải phóng
dân tộc.
Đồng thời với cuộc kháng chiến trường kỳ đánh Pháp, nhân dân Bình Định
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh cũng còn phải vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách để vươn lên đạt được những thành tựu đáng kể trong các
mặt: xây dựng nền công nghiệp, nông nghiệp, khôi phục và phát triển kinh
tế, giáo dục, y tế, giao thông... Tất cả những điều đó đã góp phần đập
tan các kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, giành lại độc lập cho quê
hương, đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi vẻ vang vào năm 1954 đã
là một minh chứng về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự mưu trí, quả cảm
và sự hy sinh vô bờ bến của bao chiến sĩ cách mạng và xương máu của
nhân dân Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng; là kết tinh của truyền
thống yêu nước của ông cha ta từ bao đời nay đã làm nên sức mạnh tổng
hợp "nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước", đem lại độc lập - tự do
- hạnh phúc cho nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Bình Định lại một lần nữa phải ra
sức đương đầu với những âm mưu thâm độc, những cuộc càn quét đẫm máu của
địch nhằm chống phá các cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang của ta.
Mặc dù vậy, nhân dân và các lực lượng quân sự Bình Định đã phối hợp với
toàn miền đấu tranh bằng ba mũi giáp công, kiên quyết đập tan các chiến
lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng quê hương, hoà trong ca
khúc khải hoàn: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" vào mùa Xuân
năm 1975.
Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc ta. Ba mươi
năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ với bao mất mát hy sinh lớn lao mà
nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Bình Định đã cống hiến hết mình
về sức người, sức của cho sự đấu tranh vì độc lập - tự do của dân tộc.
Hoà chung niềm vui của đất nước, sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân
dân Bình Định đã hăng hái bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến
tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc
phòng.
Từ sau năm 1975 đến nay, thực sự Bình Định đã đổi đời, thực sự đổi mới
từ trong nếp nghĩ kinh tế, làm ăn đến tư duy cuộc sống, tạo nên sự biến
đổi sâu sắc trong đời sống xã hội của tỉnh nhà.
Diện mạo quê hương đã đổi thay, bộ máy Nhà nước các cấp của tỉnh đã
kiện toàn, hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang phát triển làm thay da đổi
thịt cuộc sống của nhân dân. Các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hoá, giáo dục, y tế... ngày một ổn định, pht triển và nâng cao; mức sống
của người dân ngày được cải thiện.
Chính sách của Nhà nước đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa ngày
một quan tâm đúng mức để tiến tới lập thế cân bằng giữa miền núi và miền
xuôi.
Công cuộc hiện đại hoá đang được hình thành dần ở nơi đây, đã làm cho
đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một tốt đẹp hơn. Nếp
sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng ngày càng phong phú đã tạo nên
một sự chuyển biến tích cực trong xu thế phát triển của xã hội Bình
Định. Từ đó mở ra một cuộc sống đầy đủ hứa hẹn ở tương lai: ấm no, hạnh
phúc, dân chủ, công bằng và văn minh mà nhân dân Bình Định bằng truyền
thống lịch sử của mình có quyền tin tưởng và quyền được hưởng những
thành tựu đó, vì đã góp phần cống hiến sức lực của mình trong quá khứ và
trong hiện tại.
Ban biên tập (tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét