| ||||||||||
- Nhịp độ sản xuất nông nghiệp; công nghiệp tiếp tục tăng trưởng so với
cùng kỳ; hoạt động thương mại khá sôi động nhưng sức tăng không nhiều;
tài chính ngân hàng duy trì hoạt động, bảo đảm vốn cho nền kinh tế và
kinh phí cho quản lý, sự nghiệp, nhất là sự nghiệp văn hóa – xã hội.
Nông nghiệp – thủy sản
Lúa
đông xuân 2012 - 2013, toàn tỉnh gieo trồng được 63.529 ha, giảm 222,3
ha so với cùng vụ năm trước và đã thu hoạch khoảng 7.442 với năng suất
ước đạt 6,54 tấn/ha. Đến nay đã có 7.289 ha lúa hè thu được xuống giống
trên chân ruộng thu hoạch lúa đông xuân sớm và rau màu trong dịp Tết.
Cây màu vụ đông xuân 2012 – 2013 đã xuống giống được 13.900 ha, tăng
13,16% so với cùng kỳ năm trước; trong đó diện tích màu xuống ruộng là
8.782 ha, chiếm 63,2% diện tích xuống giống và tăng 11,8% so với cùng kỳ
năm trước. Ngoại trừ dịch bệnh chổi rồng trên cây nhãn và sâu đục trái
đang tấn công trên các vườn cây có múi gây thiệt hại nặng cho nhà vườn,
nhìn chung các loại cây lâu năm tiếp tục phát triển. Ước sản lượng cây
lâu năm thu hoạch trong 2 tháng đầu năm đạt 94.170 tấn, tăng 2,4% so với
cùng kỳ năm trước.
Các
mô hình chăn nuôi heo tập trung quy mô lớn đang được đầu tư nhiều; mô
hình chăn nuôi gà theo hướng tập trung, an toàn sinh học đã phát triển
khá mạnh. Tuy nhiên đàn gia súc, gia cầm có xu hướng phát triển chậm lại
do ảnh hưởng tình hình dịch bệnh của các tỉnh trong khu vực; mặt khác
giá sản phẩm gia súc, gia cầm giảm mạnh và thấp hơn giá thành, người
chăn nuôi bị thua lỗ nên không mạnh dạn đầu tư tái đàn.
Toàn
tỉnh hiện có 422,6 ha mặt nước sử dụng nuôi cá tra thâm canh, tăng 11
ha so với số đầu năm và giảm 8 ha so với cùng kỳ năm 2012; trong đó diện
tích đang thả nuôi là 308,5 ha, chuẩn bị nuôi 76,6 ha, chuyển sang đối
tượng nuôi khác 7,5 ha và có 30 ha treo ao. Ước sản lượng thủy sản nuôi
trong tháng đạt 14.950 tấn. Lũy kế sản lượng thủy sản nuôi trong 2 tháng
đạt 25.944 tấn, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng
cá tra nuôi thâm canh đạt 23.876 tấn, cá nuôi lồng bè đạt 1.651 tấn.
Công nghiệp
Chỉ
số sản xuất công nghiệp tháng 02/2013 ước giảm 13,57% so với tháng
trước và giảm 2,99% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung trong 2 tháng
đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,26% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,8%; công nghiệp chế
biến, chế tạo tăng 10,21%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt tăng
21,11%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 9,49%.
Một
số ngành công nghiệp có mức sản xuất trong 2 tháng đầu năm tăng cao so
với cùng kỳ năm 2012 là: Sản xuất giày dép tăng 53,34%; sản xuất phân
bón và hợp chất ni tơ tăng 38,76%; may trang phục tăng 32,3%; sản xuất
thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 29,22%; sản xuất bê tông và
các sản phẩm từ xi măng tăng 23,39%; sản xuất, truyền tải và phân phối
điện tăng 21,28%; sản xuất mì ống, mỳ sợi và sản phẩm tương tự tăng
8,87%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,83%... Một số ngành có
mức sản xuất trong 2 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước như:
Sản xuất sản phẩm gốm sứ khác giảm 10,58%; sản xuất sản phẩm dầu mỏ tinh
chế giảm 21,13%; sản xuất xi măng, vôi, thạch cao giảm 27,85%; sản xuất
sản phẩm thuốc lá giảm 37,69%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu
giảm 41,68%; sản xuất thực phẩm khác chưa được phân vào đâu giảm
46,67%...
Thương mại – giá cả thị trường
Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 2/2013 ước đạt
2.390,6 tỷ đồng, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 20,42% so với
cùng tháng năm trước; lũy kế 2 tháng đầu năm đạt 4.678,4 tỷ đồng, tăng
15,58% so với cùng kỳ năm trước; trong đó ngành thương nghiệp tăng
20,52%, khách sạn - nhà hàng tăng 15,71%, du lịch giảm 2,76% và dịch vụ
tăng 15,01%.
Tổng
kim ngạch xuất khẩu trong tháng 02/2013 ước đạt 21,14 triệu USD, giảm
38,03% so với tháng trước và tăng 17,59% so cùng tháng năm trước; 2
tháng đầu năm đạt 55,25 triệu USD, tăng 45,82% so với cùng kỳ năm trước
và đạt 13,48% kế hoạch năm. Tổng trị giá nhập khẩu trong tháng 2/2013
ước đạt 7,54 triệu USD, giảm 13,06% so với tháng trước và giảm 34,17% so
với cùng tháng năm trước; lũy kế trong hai tháng đầu năm đạt 16,2 triệu
USD, giảm 5,44% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ
số giá tiêu dùng tháng 02/2013 tăng 1,16% so với tháng trước; trong đó
khu vực thành thị tăng 1,02%, khu vực nông thôn tăng 1,21%. Sau hai
tháng (tức tháng 02/2013 so với tháng 12 năm trước) chỉ số giá tiêu dùng
tăng 0,46%, thấp hơn 1,76% so với cùng kỳ. Tuy vậy, chỉ số giá tiêu
dùng bình quân trong hai tháng đầu năm tăng 10,57% so với cùng kỳ năm
trước, thấp hơn 4,93% so với số liệu tương ứng của năm 2012.
Tài chính - ngân hàng
Tổng
thu ngân sách nhà nước(kể cả các nguồn thu phản ảnh qua ngân sách nhà
nước) đến cuối tháng 02/2013 ước thực hiện được 342,9 tỷ đồng, đạt
12,77% dự toán năm và giảm 10,61% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các
khoản thu cân đối ngân sách địa phương 279,6 tỷ đồng, đạt 14,59% và
giảm 9,46% so với cùng kỳ năm trước; các khoản thu phản ảnh qua ngân
sách nhà nước 63,2 tỷ đồng, đạt 8,21% dự toán năm và giảm 15,73%.
Tổng
chi ngân sách(kể cả các khoản chi phản ảnh qua ngân sách nhà nước) đến
cuối tháng 02/2013 ước thực hiện được 670,4 tỷ đồng, đạt 14,79% dự toán
năm và tăng 27,73% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chi cân đối ngân
sách địa phương 620,2 tỷ đồng, đạt 16,48%; các khoản chi phản ảnh qua
ngân sách nhà nước 50,2 tỷ đồng, đạt 6,53% dự toán năm.
Số
dư nguồn vốn huy động trên địa bàn ước tính đến cuối tháng đạt 14.100
tỷ đồng, giảm 0,05% so với tháng trước và tăng 0,59% so với số đầu năm.
Tổng dư nợ cho vay trên địa bàn ước đến cuối tháng 02 đạt 13.500 tỷ
đồng, tăng 2,56% so với tháng trước và tăng 1,09% so với số đầu năm;
trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm 68%. Cơ cấu dư nợ cho vay trên địa
bàn được cải thiện đáng kể, đến ngày 31/01/2013 có 40,67% dư nợ với mức
lãi suất từ 13%/năm trở xuống, 47,87% dư nợ với lãi suất từ trên 13%
đến dưới 15%/năm; dư nợ lãi suất trên 15%/năm chỉ còn chiếm 11,46%,
trong đó cho vay ngắn hạn chỉ còn 7,19% so với tổng dư nợ ngắn hạn.
Tính đến 18/02/2013,
nợ xấu toàn tỉnh chiếm tỉ lệ 6,15% trên tổng dư nợ, tăng 0,09 điểm phần
trăm so với thời điểm cuối năm 2012. Việc xử lý nợ xấu được các tổ chức
tín dụng tiếp tục tích cực thực hiện bằng nhiều biện pháp theo chỉ đạo
của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ngân hàng Nhà nước và chi nhành ngân hàng Nhà
nước tỉnh Vĩnh Long nhằm phấn đấu kéo giảm nợ xấu xuống dưới 5% trên
tổng dư nợ trong năm 2013.
Nguyễn Nguyên - Nguồn BC.CTK
|
Khu - tuyến công nghiệp đã góp phần làm tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, hiệu quả kinh tế-xã hội mang lại rất lớn |
(VinhLong
Portal) - Tính đến nay, tỉnh Vĩnh Long có 02 khu và 01 tuyến công
nghiệp đang triển khai thực hiện đi vào hoạt động và 03 khu đã được
Chính phủ duyệt chủ trương sẽ triển khai từ nay đến năm 2020.
Giá
trị sản xuất công nghiệp (theo giá hiện hành) tăng cao: Năm 2005 thực
hiện: 267.188 triệu đồng, chiếm 9% tổng giá trị sản xuất công nghiệp
toàn tỉnh; đến năm 2010 đạt 4.438.223 triệu đồng, chiếm 39% tổng giá
trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh; năm 2011 đạt 6.674.110 triệu đồng,
tăng 50,4% so năm 2010, chiếm 42% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của
tỉnh.
Giá
trị kim ngạch xuất khẩu khá lớn: Năm 2011 là 134,4 triệu USD, tăng 168%
so năm 2005, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 48 %/ năm.
Nhập
khẩu giữ ở mức cân đối so với xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hoá ngày càng
cao, chủ yếu là nhập khẩu trang thiết bị máy móc: Năm 2011 tổng giá trị
nhập khẩu là 64,2 triệu USD, tăng 91,6% so năm 2005, tốc độ tăng bình
quân hàng năm là 47%/ năm.
Nguồn
thu ngân sách Nhà nước gia tăng đáng kể: Năm 2011 thu 59,86 tỷ đồng,
tăng 74,6% so với năm 2005, tốc độ tăng bình quân 47%/ năm, góp phần
tích cực nguồn thu ngân sách tỉnh để tái đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh.
Công
tác trợ giúp xã hội phát triển: Hằng năm các doanh nghiệp khu-tuyến
công nghiệp hỗ trợ các hoạt động nhân đạo xã hội, phối hợp tổ chức các
phong trào như xây nhà tình thương, cấp tập vở cho học sinh nghèo, chăm
sóc công nhân ốm đau, thai sản,... với giá trị hằng năm đều tăng.
Giải
quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động: Năm 2005, có 2.676 lao
động làm việc trong các khu-tuyến công nghiệp, trình độ tay nghề, tác
phong công nghiệp cũng còn rất nhiều hạn chế, nhưng đến nay đã có 14.019
lao động làm việc trong các khu-tuyến công nghiệp (lao động trong tỉnh
chiếm 82%, trình độ đại học và trên đại học 460 người, cao đẳng 181
người, trung cấp 402 người, sơ cấp và lao động phổ thông 12.976 người).
Thu
nhập và đời sống người lao động được nâng lên: Tiền lương lao động bình
quân (trực tiếp và gián tiếp) của lao động hiện nay từ 2,8 đến 6 triệu
đồng/người/tháng. Quan hệ lao động từng bước hài hoà, ổn định và tiến bộ
trong doanh nghiệp đạt kết quả khá tốt (đạt trên 80% DN) hạn chế đình
công lãng công xảy ra góp phần ổn định sản xuất kinh doanh.
Định hướng phát triển các KCN đến năm 2020: Triển
vọng trong thời gian tới kinh tế thế giới và trong nước phục hồi, có
nhiều thuận lợi và cơ hội sẽ diễn ra, cùng với sự quyết tâm phối kết hợp
chặt chẽ của BQL các KCN với các ngành, các cấp,... Vĩnh Long sẽ tiếp
tục quy hoạch xây dựng 03 KCN Bình Tân, Đông Bình, An Định với diện tích
là 950 ha (theo Công văn số 1453/TTg-KTN, ngày16/8/2010 của Thủ tướng
Chính phủ). Hiện nay BQL các KCN đã lập và trình UBND tỉnh phê duyệt kế
hoạch triển khai thực hiện KCN và các khu tái định cư, nhà ở công nhân,
thiết chế văn hoá gắn liền với 03 KCN này.
Mỹ Dung (Nguồn Báo cáo 164/BC-BQL)
|
Tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh |
- Theo nguồn tin của Văn phòng Chính phủ, trong hai ngày 31-3 và 01-4,
Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 3 dưới sự chủ trì của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Về
tình hình kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư cho biết: Chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) quý I-2012 có xu hướng giảm dần và có tốc độ tăng thấp
nhất so cùng kỳ các năm trước. So tháng trước, CPI tháng 3 chỉ tăng
0,16%. So tháng 12-2011, CPI tháng 3 tăng khoảng 2,55%. Tính đến ngày
20-3, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 1,44% so ngày 31-12-2011.
Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tăng 1,56%,
tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ước giảm 2,13%. Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nhiều biện pháp để giảm mặt bằng lãi
suất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp (DN) tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng, như giảm trần lãi suất huy động, giảm lãi suất tái cấp vốn, tái
chiết khấu, liên ngân hàng... Lãi suất tín dụng hiện nay đã giảm khoảng 1
- 1,5% so đầu năm. Tỷ giá giao dịch VND/USD trên thị trường sau Tết
Nguyên đán tương đối ổn định. Cán cân thanh toán quốc tế trong quý I
diễn biến tích cực. Cán cân vãng lai thặng dư gần 2 tỷ USD. Dự trữ ngoại
tệ của Nhà nước được cải thiện.
Quý
I-2012, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 24,5 tỷ USD, tăng 23,6% so
cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch nhập khẩu ước khoảng 24,8 tỷ USD, tăng
6,9% so cùng kỳ năm trước. Nhập siêu bằng 1% tổng kim ngạch xuất khẩu,
là mức thấp nhất so cùng kỳ nhiều năm gần đây. Thu ngân sách nhà nước
(NSNN) lũy kế từ đầu năm đến ngày 15-3 ước đạt hơn 136,9 nghìn tỷ đồng,
bằng 18,5% dự toán năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện
đạt 2,52 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm 2011. Tổng vốn FDI đăng ký mới và
tăng thêm ước đạt hơn 2,63 tỷ USD, bằng 63,6% so cùng kỳ năm trước. Vốn
ODA giải ngân ước đạt 290 triệu USD, bằng 97,3% so cùng kỳ năm trước.
Nền
kinh tế trong quý I gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt
4%. Sản xuất công nghiệp những tháng đầu năm vẫn gặp nhiều khó khăn. Chỉ
số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 4,1% so cùng kỳ năm 2011, là mức
tăng thấp nhất so cùng kỳ nhiều năm qua. Khó khăn hiện nay của sản xuất
công nghiệp là giá và chi phí đầu vào ở mức cao, sức mua giảm, tiêu thụ
chậm. Chỉ số tồn kho tại thời điểm ngày 1-3 của ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo tăng 34,9% so cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ ước đạt hơn 569,7 nghìn tỷ đồng, tăng 21,8% so cùng
kỳ năm trước. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 21-3, có hơn 15.300 DN thành
lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng 74,6 nghìn tỷ đồng, giảm 8% về số
lượng DN và giảm 12% về vốn đăng ký so cùng kỳ năm trước. Có hơn 2.200
DN đã làm thủ tục giải thể và hơn 9.700 DN đăng ký ngừng hoạt động có
thời hạn hoặc dừng thực hiện các nghĩa vụ thuế, tăng khoảng 6% so cùng
kỳ năm trước.
Cũng
tại phiên họp, các thành viên Chính phủ đã nghe và thảo luận: Báo cáo
bổ sung tình hình thực hiện NSNN năm 2011, triển khai thực hiện NSNN năm
2012; báo cáo tóm tắt quyết toán NSNN năm 2010; Chiến lược phát triển
khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020... Ðối với Ðề án tái cơ cấu
nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao
hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế giai đoạn
2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020 do Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư
trình, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ tiếp tục làm rõ hơn những nội dung liên quan ngành, lĩnh vực thuộc
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mình; cần bám sát định hướng, quan điểm
chỉ đạo về tái cơ cấu kinh tế; đánh giá thực trạng, thuận lợi, khó khăn
của quá trình tái cơ cấu; làm rõ mục tiêu, nội dung, giải pháp thực
hiện tái cơ cấu để hoàn thiện đề án này, báo cáo Thủ tướng Chính phủ
trước khi trình Quốc hội...
Phát
biểu ý kiến tại phiên họp, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đề nghị
các bộ, ngành, địa phương cần quan tâm hơn nữa thị trường bán lẻ trong
nước bởi đây là một thị trường đầy tiềm năng. Phó Chủ tịch nước lưu ý,
có địa phương, người dân khó tiếp cận được hàng Việt. Ðối với vấn đề
thông tin tuyên truyền, Phó Chủ tịch nước đề nghị đối với các chính sách
liên quan đời sống người dân, xã hội, thì lãnh đạo các bộ, ngành cần
phát ngôn chính thức giải thích rõ để dư luận hiểu và đồng thuận.
Phát
biểu ý kiến kết luận phần kinh tế-xã hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đánh giá: Tình hình quý I-2012 cho thấy có những chuyển biến tích cực:
Lạm phát tháng 3 đã được kiểm soát và giảm, mục tiêu giảm lạm phát năm
2012 xuống một con số là khả thi, các chỉ số vĩ mô khác tiếp tục ổn
định; các tổ chức quốc tế cũng đánh giá tốt kinh tế vĩ mô của nước ta;
lãi suất tuy chưa đạt như mong muốn nhưng bắt đầu giảm; thanh khoản của
các ngân hàng thương mại được giải quyết cơ bản một bước; thị trường
chứng khoán khởi sắc; dự trữ ngoại hối được cải thiện đáng kể...
Tuy
nhiên, Thủ tướng cũng đề cập nhiều khó khăn, thách thức lớn không thể
chủ quan, thỏa mãn như: tốc độ tăng trưởng GDP quý I thấp hơn so cùng kỳ
năm trước. Sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo gặp nhiều khó khăn do
chi phí đầu vào cao, tiêu thụ chậm, tồn kho ở mức cao, dẫn đến quy mô
sản xuất thu hẹp, nhiều DN phải giải thể, ngừng hoạt động, phá sản.
Thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, ảnh hưởng sản xuất nông nghiệp.
Lãi suất giảm nhưng còn cao, việc tiếp cận vốn còn khó khăn.
Thủ
tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương nỗ lực khắc phục mọi khó khăn,
vướng mắc chủ động bám sát tình hình, kịp thời đề xuất những chính sách,
giải pháp ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình kinh tế
thế giới; kiên trì thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế-xã hội đã đề ra theo hướng ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Thủ
tướng yêu cầu NHNN điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và lãi suất
linh hoạt, phù hợp yêu cầu kiềm chế lạm phát, tăng trưởng tín dụng, giải
quyết thanh khoản của các ngân hàng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
kiểm soát không để các ngân hàng huy động với lãi suất cao, hạ dần lãi
suất phù hợp chỉ số lạm phát; giữ ổn định tỷ giá, an toàn hệ thống ngân
hàng.
Ðể
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Ðầu tư
điều tra, phân tích rõ một cách khoa học, chính xác thực trạng của các
DN hiện nay (số lượng đăng ký, giải thể, ngừng hoạt động...). Phân tích
rõ các nguyên nhân khó khăn để Chính phủ có hướng tháo gỡ, duy trì phát
triển sản xuất. Tiếp tục ưu tiên vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp,
chế biến nông sản xuất khẩu. Quan tâm DN nhỏ và vừa. Hỗ trợ DN tiêu thụ
sản phẩm, giảm hàng tồn kho, đưa hàng hóa và dịch vụ về nông thôn.
Bộ
Công thương và các bộ, ngành liên quan nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu, mở
rộng thị trường ngoài nước; tháo gỡ mọi khó khăn về thủ tục cho sản
xuất, kinh doanh. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương triển khai thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2012 và kế
hoạch đầu tư phát triển từ NSNN và vốn trái phiếu Chính phủ năm 2012.
Ðẩy mạnh huy động các nguồn vốn trong nước, tạo điều kiện giải ngân các
nguồn vốn đã cam kết trong các dự án FDI đã được cấp phép; ưu tiên vốn
đối ứng để giải ngân nhanh nguồn vốn ODA. Ðẩy nhanh hoàn thiện các đề án
tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và tái
cơ cấu DN nhà nước một cách đồng bộ và hiệu quả.
Thực
hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, y tế, xóa đói, giảm nghèo...
nhất là đối với các gia đình chính sách, người nghèo. Tăng cường bảo đảm
an ninh, trật tự an toàn xã hội, chống ùn tắc và giảm tai nạn giao
thông; làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, tạo đồng thuận trong dư
luận xã hội.
N.H.N
|
15,9 tỉ đô la Mỹ, là tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong hai tháng đầu năm đạt của cả nước đạt được |
(VinhLong
Portal) - Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong
hai tháng đầu năm đạt 15,9 tỉ đô la Mỹ, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm
trước; trong đó kim ngạch nhiều mặt hàng nguyên liệu nhập khẩu tăng
mạnh.
Trong
số các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ năm
trước, điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 101,4%;
sắt thép đạt 960 triệu đô la Mỹ, tăng 16,6%; hóa chất đạt 417 triệu đô
la Mỹ, tăng 22,2%; gỗ và nguyên phụ liệu gỗ đạt 216 triệu đô la Mỹ, tăng
64,7%.
Các
mặt hàng nguyên liệu nhập khẩu khác ghi nhận kim ngạch tăng ở mức một
chữ số trong hai tháng đầu năm gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
đạt 2,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 4,2%; vải đạt 882 triệu đô la Mỹ, tăng 4,5%;
chất dẻo đạt 707 triệu đô la Mỹ, tăng 9,2%; nguyên phụ liệu dệt, may,
giày dép đạt 387 triệu đô la Mỹ, tăng 9,8%.
Kim
ngạch hàng hóa nhập khẩu trong hai tháng đầu năm tăng chủ yếu do lượng
nhập khẩu và đơn giá bình quân một số mặt hàng nhập khẩu tăng; trong đó
giá sắt thép tăng 1,4%, giá phân bón tăng 15,4%, giá xăng dầu tăng đến
18,5%.
Nhập siêu hai tháng đầu năm 2012 ước đạt 628 triệu đô la Mỹ, bằng 4,1% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.
Trong
tổng kim ngạch nhập khẩu 2 tháng đầu năm 2012, khu vực kinh tế trong
nước đạt 7,7 tỉ đô la Mỹ, giảm 6,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
đạt 8,2 tỉ đô la Mỹ, tăng 36,8%.
.H.N
|
Một số nét về tình hình kinh tế Vinh Long tháng 01 năm 2012 |
(VinhLong
Portal) - Tháng 01/2012 là tháng tập trung chuẩn bị cho tết Nhâm Thìn.
Các địa phương trong tỉnh đang tập trung chỉ đạo chăm sóc lúa đông xuân,
sản xuất rau màu và cây ăn quả, phòng ngừa tốt dịch bệnh trên đàn gia
súc, gia cầm; đẩy mạnh sản xuất thủy sản, đảm bảo cung ứng hàng hóa và
các hoạt động dịch vụ phục vụ tết..
Nông nghiệp - thủy sản
Lúa
Đông Xuân đã xuống giống 64.418 ha, giảm 1.494 ha so với vụ Đông Xuân
2010 - 2011, đạt 99,1% kế hoạch. Nhìn chung ngoài diện tích đã thu
hoạch, các trà lúa còn lại đang phát triển khá tốt. Trong tháng 01/2012 toàn tỉnh ước xuống giống khoảng 2.772 ha cây màu các loại,
tăng gấp đôi diện tích năm 2011, trong đó có trên 1.100 ha được gieo
trồng trên đất ruộng không gieo sạ lúa Đông Xuân. Diện tích màu Đông
Xuân 2011 - 2012 lũy kế đến nay đạt 7.066 ha, cao hơn cùng kỳ 790,6 ha
và đạt 38,1% kế hoạch. Các nhà vườn tập trung đầu tư chăm sóc những vườn
cây đang chuẩn bị cho thu hoạch vào dịp tết. Trên các vườn cây ăn trái
đã kết thúc mùa vụ thu hoạch, bà con nông dân đang đầu tư chăm sóc, vệ
sinh vườn, tỉa cành tạo tán, vét mương bồi gốc… phục hồi sinh lực cho
cây, tạo tiền đề nâng cao năng suất thu hoạch trong vụ sau. Từ các
mô hình vườn cây ăn trái lâu năm đặc sản cho hiệu quả kinh tế cao đã
thúc đẩy phong trào trồng mới và cải tạo vườn cây già cỗi, vườn cây kém
hiệu quả tiếp tục phát triển chủ yếu là trồng lại cam sành, sầu riêng,
dừa.
Trong
tháng không có dịch phát sinh trên đàn heo nhưng các bệnh như tụ huyết
trùng, thương hàn, tiêu chảy, E.Coli …vẫn rải rác xảy ra ở một số huyện,
thành phố với mức độ nhẹ và được phòng ngừa chữa trị kịp thời. Từ đó
đàn heo của tỉnh tiếp tục phát triển ổn định. Hiện nay giống bò cỏ của
địa phương có trọng lượng nhỏ ngày càng được lai tạo có trọng lượng lớn
hơn và rút ngắn thời gian nuôi. Thịt bò hơi được tiêu thụ mạnh hơn và
giá ổn định so cùng kỳ hiện ở mức khá cao nên đàn bò tiếp tục được các
ngành, đoàn thể phát động phong trào, đầu tư vốn, hỗ trợ kỹ thuật và
người dân hưởng ứng tích cực. Đàn bò của tỉnh hiện có tốc độ phát triển
chậm lại và có xu hướng bão hòa do nguồn thức ăn tươi bắt đầu khan hiếm,
quỹ đất trồng cỏ không nhiều, điều kiện chăn thả hạn chế, nguồn rơm
nguyên liệu cũng ngày càng giảm do khâu cơ giới trong thu hoạch nên chất
lượng nguồn rơm giảm và rất khó thu gom. Trong tháng tình
hình dịch bệnh trên đàn gia cầm được kiểm soát chặt chẽ và không có
dịch bệnh phát sinh, giá các sản phẩm ở mức khá cao và tiêu thụ thuận
lợi nên đàn gia cầm tiếp tục phát triển mạnh, nhất là đàn gà phục vụ
trong dịp tết.
Hoạt
động nuôi thủy sản tiếp tục duy trì và phát triển nhưng vẫn chưa có dấu
hiệu khởi sắc. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh chủ yếu
vẫn là con cá tra xuất khẩu nuôi ao, hầm. Trong tháng ước sản lượng sản
phẩm thuỷ sản nuôi trồng thu hoạch khoảng 6.240 tấn, giảm 2.300 tấn so
với cùng kỳ. Nuôi cá lồng, bè tiếp tục phát triển khá chủ yếu là nuôi cá
điêu hồng.
Sản xuất công nghiệp: Giá
trị sản xuất toàn ngành công nghiệp trong tháng 01/2012 (theo giá cố
định 1994) ước tính đạt 518,463 tỷ đồng, giảm 26,15% so với tháng trước
và tăng 27,48% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực kinh tế nhà nước, giá
trị sản xuất trong tháng đạt 20,786 tỷ đồng, giảm 51,65% so với tháng
trước và giảm 16,20% so cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài nhà nước, ước
tính giá trị sản xuất trong tháng đạt 295,064 tỷ đồng, giảm 30,35% so
với tháng trước nhưng tăng 24,19% so với cùng kỳ năm trước; trong đó
doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 195,994 tỷ đồng, giảm 39,50% so với
tháng trước nhưng tăng 28,01% so với cùng kỳ năm trước; Kinh tế cá thể
đạt 99,07 tỷ đồng, giảm 0,58% so với tháng trước và tăng 17,26% so với
cùng kỳ năm trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài:, giá trị sản xuất
trong tháng ước đạt 202,613 tỷ đồng, giảm 13,94% so với tháng trước
nhưng tăng 40,41% so với cùng kỳ năm trước.
Thương mại - giá cả
Ước
tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong
tháng 01/2012 đạt 2.044,35 tỷ đồng, tăng 12,66% so với tháng trước;
Trong đó thành phần kinh tế Nhà nước ước đạt 68,95 tỉ đồng, chiếm tỉ
trọng 3,37%, tăng 9,01% so với tháng trước; kinh tế tư
nhân ước đạt 328,47 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 16,07%, tăng 12,53% so với
tháng trước; kinh tế cá thể ước đạt 1.646,93 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng
81,42% và tăng 12,85% so với tháng trước.
Do
nhu cầu đi lại vui chơi giải trí và du lịch của người dân trong dịp
trước tết tăng lên nên số khách du lịch tháng 01/2012 cũng tăng lên. Ước
tính lượng khách lưu trú và du lịch trong tháng đạt 57,4 ngàn lượt
người, tăng 7,97% so tháng trước (khách lưu trú tăng 2,9%; khách du lịch
tăng 45,8%).
Ước
tổng kim ngạch xuất khẩu trong tháng 1/2012 đạt 22,98 triệu USD giảm
21,78% so với tháng trước. Trong tháng xuất khẩu mặt hàng gạo dự ước
xuất đạt 10,3 ngàn tấn đạt 5,7 triệu USD giảm 3,1 ngàn tấn và giảm 1,88
triệu USD so với tháng trước. Xuất khẩu hàng thủy sản tuy có thị trường
tiêu thụ nhưng nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu thường thiếu ổn định,
chi phí đầu vào cao; vấn đề chất lượng vệ sinh an tòan thực phẩm… là
những khó khăn lớn nhất trong việc xuất khẩu nhóm hàng này. Vì vậy xuất
khẩu hàng thủy sản trong tháng 01/2012 ước đạt 2,64 triệu USD giảm 7,12 %
so với tháng trước. Xuất khẩu giày dép các loại ước đạt 9,92 triệu USD
giảm 24,92 % so với tháng trước. Các mặt hàng khác: hàng dệt may ước đạt
1,6 triệu USD giảm 13,3 %....
Uớc
tổng trị giá nhập khẩu tháng 01/2012 đạt 8,23 triệu USD, giảm 23,01% so
tháng trước. Trị giá nhập khẩu thực hiện trong tháng 01/2012 giảm là do
rơi vào tết Nhâm Thìn, thời gian nghỉ tết của các doanh
nghiệp dài ngày nên nhu cầu nhập khẩu vật tư cho sản xuất giảm. Mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu trong tháng vẫn là các loại nguyên vật liệu phục vụ
cho sản xuất, xăng dầu. Riêng hàng tiêu dùng và máy móc thiết bị trong
tháng thực hiện nhập rất ít.
Chỉ
số giá tiêu dùng trên địa bàn tỉnh trong tháng 01/2012 là 100,83% so
với tháng trước tăng 0,83%. Giá cả tháng này tăng khá ở cả 2 nhóm hàng
chính là lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm. Trong đó:
hàng LTTP tăng 1,04% (Lương thực giảm 4,06%; Thực phẩm
tăng 2,85%), hàng phi LTTP tăng 0,94%. So với cùng kỳ năm trước thì biến
động giá tăng 15,53%. Tuy giá cả trong tháng có tăng nhưng nhìn chung
cũng không có biến động lớn và cũng đúng theo quy luật thị trường hàng
năm nhờ hàng hóa phong phú đa dạng đáp ứng đủ nhu cầu mua sắm của người
dân. Việc giá cả tháng Tết cũng là tháng đầu năm dương lịch có mức tăng
thấp là một tín hiệu tốt cho thấy các biện pháp kiềm chế lạm phát của
Chính phủ đã phát huy được tác dụng ngay trong đầu năm mới.
Tài chính - ngân hàng
Tổng
thu ngân sách nhà nước trong tháng ước đạt 230,92 tỷ đồng, đạt 9,68% dự
toán NS năm. Trong đó, thu cân đối ngân sách địa phương 180,93 tỷ đồng
với các nguồn thu đạt khá: Thu từ doanh nghiệp nhà nước Trung ương 28 tỷ
đồng, thu từ doanh nghiệp nhà nước địa phương 48,25 tỷ đồng, thu từ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 8,03 tỷ đồng, thu thuế công thương
nghiệp ngoài quốc doanh 36,5 tỷ đồng… Tổng chi ngân sách của tỉnh trong
tháng ước thực hiện 361,85 tỷ đồng, đạt 9,29% dự toán NS năm. Trong đó,
chi cân đối ngân sách địa phương được 341,85 tỷ đồng, đạt 10,53%; các
khoản chi phản ảnh qua ngân sách nhà nước được 20,0 tỷ đồng, đạt 3,08%
dự toán năm.
Tính
đến 18/01/2012 số dư nguồn vốn huy động các ngân hàng đạt khoảng 11.085
tỷ đồng, ước đến cuối tháng 01 tổng số dư nguồn vốn huy động trên địa
bàn đạt 11.150 tỷ đồng, giảm 74 tỷ đồng (giảm 0,66%) so với đầu tháng.
Doanh số cho vay trong 19 ngày đầu tháng 01 đạt 1.300 tỷ đồng, ước tính
doanh số cho vay trong tháng 01/2012 đạt 2.300 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho
vay đến ngày 18/01/2012 đạt khoảng 13.073 tỷ đồng, ước tổng dư nợ cho
vay của các NHTM trên địa bàn đến cuối tháng 01/2012 đạt 13.075 tỷ đồng,
giảm 342 tỷ đồng. Dư nợ giảm chủ yếu do nhu cầu vay thu mua lương thực
giảm, trong khi đó các doanh nghiệp tranh thủ trả nợ để giảm chi phí lãi
vay, các dự án vay trung dài hạn đang đến kỳ trả nợ, trong đó có các dự
án bất động sản. Lãi suất huy động VND của các TCTD ít biến động, đối
với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng các TCTD huy động
với mức lãi suất phổ biến sát 6%/năm; ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên đa
số là 14%/năm. Lãi suất cho vay VND phổ biến đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 17 - 19%/năm, thấp nhất 15%/năm; cho
vay sản xuất - kinh doanh khác 17 - 20%/năm, thấp nhất 15%/năm; cho vay
lĩnh vực phi sản xuất 22 - 25%/năm.
Nguyễn Nguyên
|
Thủ tướng phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 |
(VinhLong
Portal) - Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với một trong các quan điểm chỉ đạo là:
Điều tra, đánh giá khoáng sản phải đi trước một bước, làm rõ tiềm năng
tài nguyên khoáng sản để lập quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử
dụng khoáng sản và dự trữ quốc gia.
Chiến
lược sẽ ưu tiên đầu tư cho điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản cả
phần đất liền và biển, hải đảo để làm rõ tiềm năng tài nguyên khoáng
sản. Thăm dò, khai thác khoáng sản gắn với chế biến và sử dụng hiệu quả.
Cân đối giữa khai thác với dự trữ khoáng sản; phát triển bền vững công
nghiệp khai khoáng gắn với bảo vệ môi trường và đảm bảo quốc phòng - an
ninh.
Mục
tiêu của Chiến lược là khai thác khoáng sản phải gắn với chế biến, tạo
sản phẩm có giá trị kinh tế cao; đến năm 2020 chấm dứt các cơ sở chế
biến khoáng sản manh mún, công nghệ lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, gây ô
nhiễm môi trường; hình thành các khu công nghiệp chế biến khoáng sản
tập trung với công nghệ tiên tiến, có quy mô tương xứng với tiềm năng
của từng loại khoáng sản.
Bên
cạnh đó, chỉ xuất khẩu sản phẩm sau chế biến có giá trị cao đối với
khoáng sản quy mô lớn. Các khoáng sản còn lại khai thác chế biến theo
nhu cầu trong nước tăng cường dự trữ khoáng sản quốc gia làm cơ sở phát
triển bền vững kinh tế - xã hội.
Đánh giá tổng thể tiềm năng một số loại khoáng sản quan trọng
Trong
công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, sẽ đánh giá tổng thể
tiềm năng một số loại khoáng sản quan trọng như: Than nâu ở đồng bằng
sông Hồng; bauxit, sắt laterit ở Tây Nguyên; đất hiếm - urani; chì kẽm ở
Tây Bắc, Việt Bắc, Trung Bộ; liti, vàng ở Trung Trung Bộ; đá hoa trắng ở
Bắc Bộ...
Trong
thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, đối với khoáng sản than,
sẽ đẩy mạnh thăm dò phần sâu dưới - 300m đối với các mỏ ở bể than Quảng
Ninh, Thái Nguyên, Quảng Nam; lựa chọn một số khu vực có triển vọng nhất
ở vùng đồng bằng sông Hồng, thăm dò đến mức sâu - 1000m. Lựa
chọn phương pháp khai thác thử nghiệm tại một số khu vực thuộc bể than
đồng bằng sông Hồng bảo đảm an toàn môi trường, không ảnh hưởng tới phát
triển kinh tế - xã hội trên mặt đất, làm cơ sở đề xuất giải pháp khai
thác tổng thể bể than giai đoạn sau năm 2020.
Đối
với khoáng sản vàng, chỉ thăm dò, khai thác đối với mỏ vàng gốc. Công
tác chế biến quặng vàng phải sử dụng công nghệ tiên tiến, không gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường, nguồn nước; không thăm dò, khai thác vàng sa
khoáng.
Đối
với các loại khoáng sản kim loại khác, thực hiện thăm dò, khai thác
phải gắn với chế biến sâu chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước, không xuất
khẩu quặng và sản phẩm sau chế biến.
Bên
cạnh đó, không khai thác đá vôi tại khu vực sườn núi dọc theo hai bên
đường quốc lộ để bảo vệ cảnh quan; đối với khoáng sản đá vôi trắng,
không xuất khẩu đá khối.
N.H.N
|
Sản xuất công nghiệp tỉnh Vĩnh Long 11 tháng năm 2011 |
(VinhLong
Portal) - Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp trong 11 tháng năm
2011 (theo giá cố định 1994) ước tính đạt 5.766,78 tỷ đồng, tăng 19,2%
so với cùng kỳ năm trước.
Mức
độ tăng trưởng có phần chậm, chưa tương xứng năng lực sản xuất hiện có
do tác động của tình hình giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, nguồn
cung cấp nguyên liệu của một số ngành chưa ổn định, lãi suất tín dụng
tuy hiện đang có xu hướng giảm so với những tháng đầu năm nhưng vẫn còn ở
mức khá cao …
Khu vực kinh tế nhà nước:
Giá trị sản xuất trong 11 tháng đạt 357,54 tỷ đồng, tăng gấp gần 1,52
lần cùng kỳ năm trước nhưng do tỉ trọng nhỏ nên chỉ đóng góp cho giá trị
sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 2,51%.
Hầu
hết các doanh nghiệp khu vực này đều có giá trị sản xuất tăng khá cao
so với cùng kỳ năm trước: Xí nghiệp Phân bón Cửu Long tăng gấp 2,03 lần
cùng kỳ do mở rộng được thị trường ở Miền Trung và Tây Nguyên; Công ty
Thuốc lá Cửu Long tăng 49,57% do tăng sản lượng thuốc lá điếu gia công
cho khách hàng; Công ty Cổ phần Cơ khí Cửu Long tăng 37,47% do hợp đồng
được sản phẩm bánh máy xới tay, bồn chứa nhiên liệu và khung nhà thép;
Công ty In Nguyễn Văn Thảnh tăng 10,01%; Công ty Cấp nước tăng 5,62%.
Chỉ riêng Xí nghiệp Xi măng 406 giảm 4,87% do trong quí I chưa ký kết
được hợp đồng cung cấp xi măng cho các công trình lớn.
Khu vực ngoài nhà nước:
Giá trị sản xuất trong 11 tháng đạt 3.356,6 tỷ đồng, tăng 12,04% so với
cùng kỳ năm trước, đóng góp cho giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp
tăng 7,46%; trong đó các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 10%, kinh tế
cá thể tăng 17,12% so với cùng kỳ năm trước (do ảnh hưởng lớn của việc
các doanh nghiệp sản xuất gốm, gạch chuyển xuống loại hình kinh tế cá
thể).
Nhiều
sản phẩm chủ yếu của khu vực kinh tế này duy trì được mức tăng trưởng
khá cao so với cùng kỳ như: gạo xay xát, gạo lau bóng, thức ăn gia súc
gia cầm, thức ăn thủy sản, bánh các loại, nước mắm, nước chấm, sản xuất
các sản phẩm từ thịt, lương thực chế biến, bánh mì, nước uống tinh
khiết, thuốc viên, ống tiêm kim chích, bê tông ly tâm, vỏ nang capsule,
gạch nung, cửa nhôm, ... Tuy nhiên, vẫn có một số sản phẩm chững lại và
giảm mạnh so với cùng kỳ do khan hiếm về nguyên liệu và đầu ra không ổn
định như: thủy sản đông lạnh, trứng vịt muối, thảm lác, chiếu lác, dầu
nhờn, gốm mỹ nghệ, cửa sắt, tàu và xà lan, ...
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài:
Giá trị sản xuất trong 11 tháng đạt 2.052,64 tỷ đồng, tăng 27,8% so với
cùng kỳ năm trước, đóng góp cho giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp
tăng 9,23%.
Nhiều
doanh nghiệp khu vực này có giá trị sản xuất tăng mạnh so với cùng kỳ
năm trước như: Công ty TNHH BO HSING tăng gấp 2,1 lần cùng kỳ (do từ
giữa quí I đã ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm), Công ty TNHH CJ VINA
AGRI tăng gấp 3 lần cùng kỳ; Công ty Liên doanh Dinh dưỡng Thủy sản quốc
tế (ANCO) tăng 39,24%, Công ty Liên doanh Tỷ Xuân tăng 17,46%, Công ty
TNHH Phú Quý ngừng sản xuất từ đầu năm (do khó khăn về tài chính và
nguyên liệu) đến tháng 5/2011 mới tổ chức lại sản xuất nhưng cũng tăng
57,29% so với cùng kỳ, … Tuy nhiên, sản xuất của một số doanh nghiệp
chững lại do khó khăn nhất định: Công ty TNHH ACECOOK chỉ tăng 0,7% do
khó khăn về thị trường xuất khẩu; Công ty Liên doanh Xi măng Việt Hoa
giảm 4,62% do sản lượng xi măng gia công giảm mạnh trong ba tháng gần
đây; Công ty TNHH Quốc Thảo giảm 18,77% do nguồn nguyên liệu thiếu ổn
định.
Nguyễn Nguyên
|
Tổng thu ngân sách 10 tháng đầu năm 1.975,51 tỷ đồng, đạt 97,36% |
Theo
báo cáo của Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long trong tháng 10/2011 tổng thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 180,82 tỷ đồng.
Trong
đó, thu cân đối ngân sách địa phương 110,45 tỷ đồng với các nguồn thu
đạt khá: Thu từ doanh nghiệp nhà nước Trung ương 20 tỷ đồng, thu từ
doanh nghiệp nhà nước địa phương 30 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài 13 tỷ đồng, thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc
doanh 8 tỷ đồng, thu tiền sử dụng đất 10 tỷ đồng, thu thuế thu nhập 10
tỷ đồng, … ; thu xổ số kiến thiết 70 tỷ đồng. Lũy kế trong 10 ước thực
hiện được 1.975,51 tỷ đồng, đạt 97,36% dự toán năm. Trong đó, các khoản
thu cân đối ngân sách địa phương được 1.289,97 tỷ đồng, đạt 90,27%; các
khoản thu phản ảnh qua ngân sách nhà nước được 685,54 tỷ đồng (chủ yếu
là thu từ xổ số kiến thiết), đạt 114,26% dự toán năm. Một số nguồn thu
lớn đạt khá như: Thu từ doanh nghiệp nhà nước Trung ương được 195,48 tỷ
đồng, đạt 84,99%; thu từ doanh nghiệp nhà nước địa phương được 168,02 tỷ
đồng, đạt 67,21%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
74,95 tỷ đồng, đạt 117,11%; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được
315,84 tỷ đồng, đạt 86,77%; thu tiền sử dụng đất được 123,58 tỷ đồng,
đạt 176,55%; thu thuế thu nhập được 149,63 tỷ đồng, đạt 84,91%, thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu được 60,57 tỷ đồng, đạt 106,27% dự toán năm.
Tổng
chi ngân sách của tỉnh trong tháng ước thực hiện 383,05 tỷ đồng. Lũy kế
trong 10 tháng được 2.729,35 tỷ đồng, đạt 84,62% dự toán năm. Trong đó,
chi cân đối ngân sách địa phương được 2.330,98 tỷ đồng, đạt 88,79%; các
khoản chi phản ảnh qua ngân sách nhà nước được 398,37 tỷ đồng, đạt
66,4% dự toán năm. Một số khoản chi ngân sách địa phương đạt khá như:
Chi cho đầu tư phát triển (kể cả chi phản ảnh qua ngân sách nhà nước)
được 912,35 tỷ đồng, đạt 76,05%; chi thường xuyên được 1.757,42 tỷ đồng,
đạt 91,2% dự toán năm (trong đó chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo được
858,12 tỷ đồng, đạt 99,16%).
Thanh Bình (NguồnBC 559/BC-CTK)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét