VỊTRÍ ĐỊA LÝ - ĐỊA DANH VÀ ĐỊA GIỚI HÀNHCHÍNH
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ởphía bắc Tây Nguyên trên độ cao trung bình 700 - 800 m so với mực nước biển.Với diện tích 15.536,92 km², tỉnh Gia Lai trải dài từ 12°58'20" đến 14°36'30" vĩ bắc, từ 107°27'23" đến 108°54'40"kinh đông.Phía
bắc GiaLai giáp tỉnh Kon Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp
Cam-pu-chia với 90km là đường biên giới quốc gia, phía đông giáp các
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.
Khí hậu
Gia Lai có khí hậu gió mùa cao nguyên, một năm có hai mùa :bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây có lượng mưa trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 22-25ºC.
Địa danh và địa giới hành chính
Vùng
đất tỉnh Gia Lai ngày nay là địa bàn cư trú lâu đời của các dân tộc
Jrai ,Bahnar có tập quán sống thành từng làng. Trước khi người Pháp đặt
ách đô hộ lênTây nguyên, các dân tộc Gia Lai đang ở giai đoạn cuối của
xã hội nguyên thuỷ chuyển sang giai đoạn xã hội có giai cấp.
Vùng
đất tỉnh Gia Lai ngày nay là địa bàn cư trú lâu đời của các dân tộc
Jrai, Bahnar có tập quán sống thành từng làng. Trước khi người Pháp đặt
ách đô hộ lên Tây nguyên, các dân tộc Gia Lai đang ở giai đoạn cuối của
xã hội nguyên thuỷ chuyển sang giai đoạn xã hội có giai cấp.
Từ
những năm đầu của thập niên 40 của thế kỷ XIX, các giáo sĩ người Pháp
đã thâm nhập khu vực cư trú của người Bahnar thuộc xã Hà Tây - huyện Chư
Păh và xã Hà Đông - huyện Đăk Đoa ngày nay để truyền đạo. Theo chân các
giáo sĩ, thực dân Pháp ngày càng tiến sâu vào Bắc Tây Nguyên tạo nên
những xáo trộn mới bằng những chính sách chia để trị, dựa vào nhóm này
để chống nhóm khác, chia rẽ Kinh - Thượng, chia rẽ các dân tộc trong
tỉnh, trong khu vực với nhau.
Từ
cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã từng bước
thiết lập bộ máy cai trị trên đất Gia Lai. Sau nhiều lần thay đổi, sáp
nhập, chia tách để thành lập các đơn vị hành chính trên vùng Tây Nguyên,
ngày 24 - 5 - 1932, tỉnh Pleiku được thành lập (gồm đại lý Pleiku và
đại lý Cheo Reo) theo Nghị định Toàn quyền Đông Dương.
Đến
trước Cách mạng Tháng Tám 1945, tỉnh Pleiku có: thị xã Pleiku (thành
lập ngày 3 - 12 - 1929 theo Nghị định Khâm sứ Trung Kỳ), huyện An Khê,
huyện Pleikli, huyện Chư Ty và huyện Cheo Reo.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tên tỉnh được chính quyền cách mạng gọi là Gia Lai.
Tháng
6 - 1946, thực dân Pháp chiếm lại vùng đất Gia Lai và gọi tên của tỉnh
là Pleiku. Từ năm 1946 - 1954, tỉnh Pleiku nói riêng, Tây Nguyên nói
chung trải qua nhiều lần chủ thể cai quản theo các văn bản của chính
quyền thực dân và chính phủ bù nhìn.
Về
phía chính quyền cách mạng, trong những năm kháng chiến chống thực dân
Pháp, tên tỉnh vẫn giữ là Gia Lai nhưng qua từng thời điểm khác nhau,
tỉnh Gia Lai lại thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan khác nhau
trong khu vực, các huyện trong tỉnh cũng nhiều lần thay đổi tên gọi và
địa giới hành chính.
Đối
với chính quyền Sài Gòn, mặc dù từ năm 1954 cho đến ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng, tên tỉnh vẫn gọi là Pleiku, nhưng diện mạo của tỉnh đã
nhiều lần thay đổi.
Về
phía chính quyền cách mạng, từ năm 1954 - 1975 vẫn giữ tên tỉnh là Gia
Lai, nhưng địa giới hành chính của tỉnh có nhiều thay đổi qua các giai
đoạn khác nhau của lịch sử.
Ngày
20 - 9 - 1975, theo Nghị quyết của Bộ Chính trị, hai tỉnh Gia Lai và
Kon Tum được hợp nhất thành một tỉnh có tên gọi là Gia Lai - Kon Tum.
Ngày
12 - 8 - 1991, theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khoá VIII, Gia
Lai - Kon Tum tách thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum. Từ sau khi chia
tỉnh, Gia Lai tiếp tục chia tách để lập thêm một số huyện mới.
Đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố: 17, gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 14 huyện.
Đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn: 222, gồm 24 phường, 12 thị trấn và 186 xã.
ĐIỀU KIỆN XÃHỘI
Dân số
Dân số tỉnh Gia Lai có 1.213.750 người (số liệu thống kê năm 2008) bao gồm 34 cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Việt (Kinh) chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc (33,5%), (13,7%),
Cư dân Gia Lai có thể chia làm hai bộ phận: Bộ phận cư dân bản địa đã sinh sống ở Gia Lai từ lâu đời gồm dân tộc dân tộc bộ phân cư dân mới đến bao gồm người Việt và các dân tộc ít người khác.
Người Việt đầu
tiên đến sinh sống ở khu vực An Khê (phía đông bắc của tỉnh) từ cuối
thế kỷ XVII. Tuy nhiên đến đầu thế kỷ XIX, người Việt định cư tại Gia
Lai vẫn rất thưa thớt và cũng chỉ tập trung ở khu vực An Khê.
Trong
thời thuộc Pháp, vào những năm 1923 - 1945, chính quyền thực dân đưa
một bộ phận người Việt từ vùng đồng bằng ven biển miền Trung lên làm
công nhân trong các đồn điền chè, cà phê và các công trường làm đường
dọc quốc lộ 19 và 14.
Từ năm 1954
trở về sau, dân số người Việt ở Gia Lai tăng nhanh do nhu cầu tuyển dụng
công chức, viên chức của chính quyền Sài Gòn, dân di cư miền Bắc vào
năm 1954, chính sách cưỡng ép đồng bào miền Trung lên các khu dinh
điền.
Sau
ngày thống nhất đất nước (năm 1975), Đảng và Nhà nước ta đã chuyển một
số lượng lớn đồng bào người Kinh từ miền Bắc và miền Trung lên xây dựng
kinh tế, quốc phòng, điều động cán bộ bổ sung cho Tây nguyên nói chung
và Gia Lai nói riêng, làm cho số lượng người Kinh ở Gia Lai tăng lên
nhanh chóng.
Dân tộc Jrai (Jơrai, Jarai, Gia Rai) là một trong 5 tộc người (Jrai, Ê Đê, Chăm, Raglai, Chu Ru) Mã Lai - Đa Đảo
(Malayo - Polinesien) hiện đang sinh sống trên vùng đất nam Trường
Sơn và đồng bằng ven biển Trung Bộ. Địa bàn cư trú là từ nam Kon Tum đến
bắc tỉnh Đăk Lăk (theo chiều bắc - nam) và từ tây bắc tỉnh Phú Yên
Lễ đâm trâu
đến vùng biên giới tiếp giáp với Cam Pu Chia (theo chiều đông -
tây). Trong khu vực cư trú này, Gia Lai là địa bàn người Jrai sinh sống
tập trung nhất. Khu vực cư trú chính là phía tây cao
nguyên Pleiku (thuộc các huyện Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông, Chư
Sê, thành phố Pleiku) và vùng trũng Cheo Reo - Phú Túc ở phía đông nam
tỉnh (thuộc thị xã Ayun Pa và các huyện Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa).
Với
số lượng dân cư chiếm ưu thế trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, ý
thức về tộc người và vùng lãnh thổ tộc người khá rõ, lại sinh sống trên
địa bàn án ngữ các đầu mối giao thông huyết mạch nối bắc Tây Nguyên với
các tỉnh ven biển nam Trung Bộ nên người Jrai ở Gia Lai chiếm giữ một vị
trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng.
Đây là bộ phận dân cư đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử hình
thành và phát triển của tỉnh. Trong những năm kháng chiến giải phóng
dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng đất nước những tên người như nhà
giáo Nay Đer, anh hùng Kpa Ó, anh hùng Kpui Thu...đã đi vào lòng đồng
bào Tây Nguyên và cả nước.
Dân tộc Bahnar (Bơhnar,
Ba Na) là một trong những dân tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khơme. Địa bàn cư
trú chủ yếu là nam tỉnh Kon Tum, bắc và đông tỉnh Gia Lai. Ngoài ra, còn
có một bộ phận người Bahnar sống rải rác ở các huyện phía tây của tỉnh
Bình Định, Phú Yên.
Trên địa
bàn tỉnh Gia Lai, khu vực cư trú tập trung của người Bahnar là phía đông
cao nguyên Pleiku (thuộc các huyện Mang Yang, Đăk Đoa, phía bắc huyện
Chư Păh), trên cao nguyên Kon Hơnờng (thuộc huyện Kbang), vùng
Nhà rông Tây Nguyên
trũng An Khê (thuộc các huyện Đăk Pơ, Kông Chro, đông bắc thị xã An Khê).
Người
Bahnar ở Gia Lai có truyền thống cách mạng lâu đời. Trong những năm
kháng chiến giải phóng dân tộc, Tỉnh uỷ Gia Lai đều chọn khu vực cư trú
của người Bahnar để xây dựng thành vùng căn cứ cánh mạng nên ảnh hưởng
của cách mạng đến với người Bahnar khá sớm. Anh hùng Núp, anh hùng Wừu
của dân tộc Bahnar hiện không chỉ là niềm tự hào của đồng bào Tây
Nguyên, mà còn là niềm kiêu hãnh của cả dân tộc Việt Nam.
Ngoài
các dân tộc nêu trên, tính đến năm 2005, Gia Lai có 915 người Hoa mà tổ
tiên của họ có mặt ở Gia Lai từ những ngày đầu thành lập thị xã, thị
trấn.
Bảo tàng tỉnh Gia Lai
Từ
năm 1954 đến nay, Gia Lai còn tiếp nhận một bộ phận đồng bào các dân
tộc ít người từ miền Bắc vào theo hai đợt chính. Đợt thứ nhất vào năm
1954 và đợt thứ hai trong cuộc chiến tranh biên giới phía bắc (cuối thập
niên 70 của thế kỷ trước). Đến cuối năm 2006, Gia Lai có 23.770 người
là đồng bào các dân tộc ít người không thuộc bộ phận các cư dân bản địa,
chiếm 2,04% dân số toàn tỉnh.
Nguồn: LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH GIA LAI 1945 - 2005
ằm
trên địa bàn chiến lược ở khu vực bắc Tây Nguyên, Gia Lai là vùng đất
có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, đa dạng về thành phần cư
dân và nền văn hóa cổ xưa mang bản sắc độc đáo của đồng bào các dân tộc
thiểu số. Dù trải qua biết bao biến đổi của lịch sử, trên mảnh đất Gia
Lai vẫn duy trì một nền văn hóa đa dạng mang đậm bản sắc văn hóa Tây
Nguyên bản địa.
Lễ hội
Chiếm đại đa số dân cư lâu đời ở Gia Lai phải kể đến hai dân tộc
Jrai và Bahnar. Theo những tài liệu dân tộc và khảo cổ học thì có thể
giả định địa bàn cư trú gốc của người Jrai là cao nguyên Pleiku và lưu
vực hai con sông Ayun và sông Ba. Người Jrai và Bahnar không chỉ là hai
dân tộc đông nhất, có ý thức rõ về địa vực cư trú mà còn có những tác
động nhất định đối với đời sống văn hóa của các dân tộc khác trong khu
vực.
Lễ hội đâm trâu
Nhắc đến Gia Lai là nhắc đến văn hóa cồng chiêng, đến nghệ thuật
văn hóa nhà rông, đến điêu khắc tượng gỗ, đến nhà mồ và các lễ hội đâm
trâu, lễ hội bỏ mã và các điệu múa xoang của người Jrai, Bahnar trong
tiếng nhạc cồng chiêng trầm hùng, sôi động.
Cho đến nay, Gia Lai vẫn là nơi bảo lưu những yếu tố văn hóa cổ
truyền độc đáo, thể hiện rõ nét nhất là trong những hoạt động nghệ
thuật, âm nhạc, hội họa, múa hát. Vùng đất này cũng đã là nơi lưu giữ
kho tàng văn hóa dân gian với những truyền thuyết đã ăn sâu vào tiềm
thức con người.
Tiếp nối văn hóa từ thời đại đồ đá, bề dày lịch sử - văn hóa Gia
Lai đã được minh chứng bằng hàng loạt di tích, di vật là dấu ấn của
nhiều thời đại như trống đồng An Thành, những di vật văn hóa Chăm Pa, di
vật liên quan đến phong trào nông dân Tây Sơn trên vùng đất Tây Sơn
thượng đạo và gần đây là hình ảnh, hiện vật về cuộc đấu tranh của nhân
dân Gia Lai dưới sự lãnh đạo của Đảng chống đế quốc và thực dân.
Nhà rông Tây Nguyên
Trong số những di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh
trên địa bàn, hiện nay Gia Lai đã có 12 di tích và cụm di tích đã được
Bộ Văn Hóa - Thông Tin cấp bằng công nhận. Số lượng di tích tuy không
nhiều nhưng phản ánh khá rõ nét tiến trình lịch sử cũng như cảnh quan
thiên nhiên của địa phương, điển hình là những di tích về cách mạng
kháng chiến như làng kháng chiến Stơr - quê hương anh hùng Núp, chiến
thắng Đăk Pơ, hoặc các di tích văn hóa khác như di tích Biển Hồ mà hiện
nay đang được ngành du lịch khai thác, thu hút khá nhiều du khách đến
tham quan, thưởng ngoạn.
| ||
Bảo tàng tỉnh Gia Lai
|
Văn hoá các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên
Văn
hoá các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên được hình thành chủ yếu trên nền
kinh tế nông nghiệp nương rẫy, tự cấp tự túc phụ thuộc vào thiên nhiên.
Về phương diện xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các quan hệ xã hội
cộng đồng, cộng đồng gia tộc mẫu hệ. Rừng là môi trường sinh thái chủ
yếu đối với người Tây Nguyên.
Người Jrai sinh sống chủ
yếu ở Gia Lai và Kon Tum, có số dân tương đối đông, gồm 250.000 người
(năm 1999). Jrai là một tộc người có quá trình phát triển lịch sử lâu
dài. Vào giữa thế kỷ XV, xã hội người Jrai đã phát triển cao, thành một
xã hội có mầm mống sơ khai của nhà nước. Tuy vậy, do sự biệt lập về địa
lý, ít nhiều bị tách khỏi thế giới bên ngoài...xã hội người Jrai vẫn
chững lại ở giai đoạn tiền nhà nước.
Người Jrai đã thể hiện tài hoa và
khiếu thẩm mỹ của mình qua nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ, qua kiến trúc
nhà cửa và qua trang phục.
Hầu như ở nhà mồ nào của người Jrai
cũng có tượng ngồi ôm mặt khóc đặt quanh mả, tượng đàn ông hoặc tượng
đàn bà đội mâm gỗ đựng thức ăn để dâng người chết, tượng đàn ông búi tóc
đứng đánh trống, tượng phụ nữ giã gạo, tượng người đóng khố cưỡi voi...
Điều đáng lưu ý là các tượng đó được chế tác bằng những công cụ sản
xuất như rìu, rựa, dao (không phải những công cụ nghề nghiệp) và từ
những nguyên liệu thông dụng vốn có ở địa phương.
Ngoài khu vực nhà mồ, ở cầu thang, xà
nhà, sàn nhà của đồng bào đều có những hình điêu khắc có ý nghĩa tượng
trưng, phản ánh một kiểu tư duy hồn nhiên của người xưa, phản ảnh ước
mơ, nguyện vọng về sự phồn vinh, giàu có, ấm no.
Nhà rông là biểu tượng văn hoá của
tộc người Jrai cũng như của một số tộc người khác ở Tây Nguyên...Nhà
rông dân gian luôn gắn liền với cộng đồng buôn làng. Trong quan niệm
đồng bào từ xưa đến nay thì nhà rông là nơi cư trú của thần linh, nơi
diễn ra phần lớn các hoạt động liên quan đến thế giới tâm linh của cộng
đồng.
Ngôi nhà rông là nơi bàn bạc việc tổ
chức sản xuất, săn bắn, chiến đấu, tổ chức các sinh hoạt nghi lễ và lễ
hội, là nơi truyền dạy nghề cho lớp trẻ và là nơi trưng bày những hiện
vật tiêu biểu cho truyền thống của cộng đồng làng trong săn bắn, sản
xuất, lễ hội. Nhà rông thường được xây dựng ở trung tâm buôn làng, trước
mặt có khu đất rộng để có thể tiến hành các lễ hội văn hoá dân gian như
lễ đâm trâu, tụ tập bà con để tiến hành các sinh hoạt tập thể.
Qua những trang phục như quần áo khố
hoa đã chứng tỏ năng khiếu thẩm mỹ, tài thêu dệt, cách sử dụng màu sắc
của tộc người Jrai và đặc biệt là của phụ nữ. Hầu như tất cả phụ nữ Jrai
đều biết dệt. Trước đây các em bé học dệt từ 13-14 tuổi. Những đường
thêu kết thành tấm vuông đỏ trước ngực áo nam giới trông khoẻ mạnh, thể
hiện lòng dũng cảm. Việc sử dụng hạt Tơrơlết làm hạt cườm hình trụ màu
ngà ở các tua khố, áo là một sáng tạo rất thú vị...
Trong đời sống văn hoá tinh thần của
người Jrai thì chiêng rất phổ biến, sinh hoạt đánh chiêng rất điêu luyện
và được hâm mộ, nhạc chiêng phát triển cao, có thể đánh được các làn
điệu dân ca. Nhạc chiêng cồng còn được phát triển bằng cách tăng cường
bộ đệm (chiêng núm) từ 3 đến 4 chiếc đánh cùng một lúc tạo nên một hợp
âm quãng 8 song hành. Trống được phối hợp với chiêng để tăng thêm khả
năng biểu hiện.
Các gia đình, các làng có một tập tục
truyền thống là rất tôn trọng và tự hào về bộ chiêng của làng và của
gia đình mình. Một bộ chiêng quý xưa được đổi bằng voi, bằng hàng chục
con trâu bò. Một hình ảnh đẹp được nhắc lại rất nhiều lần trong các bản
brikhan cổ là "nhà tràn đầy nồi đồng, chiêng núm, chiêng bằng, ché tuk,
ché tang". Chiêng vừa là của cải vật chất vừa là văn hoá phẩm.
Sinh hoạt chiêng của người Jrai đã
trở thành một sinh hoạt văn nghệ truyền thống có tính quần chúng rộng
rãi, sâu sắc, có sức thu hút cổ vũ mạnh mẽ. Ngày nay, Gia Lai còn lưu
giữ 5.117 bộ cồng chiêng, duy trì 300 đội văn nghệ quần chúng ở các
làng, xã, huyện trong tỉnh.
Đàn goong được sử dụng rộng rãi, âm thanh hay, khả năng biểu đạt cao. Đàn Kni âm thanh nhỏ nhưng là thứ đàn đặc sắc.
Có thể nói Tây Nguyên là một vùng đất
đa dân tộc, đa văn hoá với rất nhiều đặc trưng, nhiều sắc thái văn hoá
độc đáo, huyền thoại mà rất nhiều người muốn khám phá, tìm hiểu về nó.
(Theo đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số)
Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên
Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và
văn hoá cồng chiêng là tài sản vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên
không những là một giá trị nghệ thuật đã từ lâu được khẳng định trong
đời sống xã hội mà còn là kết tinh của hồn thiêng sông núi qua bao thế
hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như
những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là "tiếng nói" của con
người, của thần linh theo quan niệm vạn vật hữu linh.
Ở nhiều dân tộc thiểu số Tây Nguyên,
trong các hoạt động mang tính nghi lễ, tiếng chiêng thường đi kèm với
lời cúng và múa thiêng để cầu gọi các thế lực siêu nhiên. Ở tộc người
Jrai, dàn chiêng arap có 13 chiếc thường dùng vào tang ma, chiêng kơm và
chiêng trum dùng trong lễ rước thần lửa. Đối với các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên, để biến những bộ chiêng cồng từ giá trị vật
chất đơn thuần trở thành vật thiêng, dân làng phải tiến hành nhiều nghi
lễ mang đậm dấu ấn tâm linh. Trong đó đáng kể là lễ đón "hồn chiêng"-lễ
cuối cùng trong hàng loại các nghi lễ được tiến hành nhằm đưa "xác
chiêng" được nhập hồn và trở thành chiêng thiêng. Việc sử dụng cồng
chiêng như thế nào và trong những lễ hội gì cũng đều được người dân tộc
thiểu số Tây Nguyên tuân thủ theo những qui định rất nghiêm ngặt.
Với các dân tộc bản địa Tây Nguyên,
không gian văn hoá để lưu giữ và phát triển âm nhạc chiêng cồng là không
gian thiêng. Về hình thức không gian này là không gian của của rừng núi
hoang dã, của buôn làng đơn sơ bên những dòng suối, ngọn núi, rừng cây.
Nhưng điều quan trọng bậc nhất là trong không gian ấy có các vị thần
cùng chung sống, chỉ có không gian riêng mới có thể sinh ra tiếng chiêng
thiêng. Bên cạnh đó, trong không gian ấy, con người với tư cách là một
thực thể của vũ trụ chính là tầng dưới đang hướng về một cõi thiêng nằm
ngoài vũ trụ, bởi thế trong các buôn làng truyền thống của Tây Nguyên,
khi già làng và thầy cúng làm lễ cúng chiêng trước khi mang thứ nhạc cụ
vào lễ hội, mọi người có mặt quanh đó đều phải im lặng và mắt hướng về
phía ngọn lửa với lòng thành tuyệt đối. Đến lúc chiêng được mang vào
hội, nghĩa là được sự đồng ý của thần linh, khi những âm thanh trầm bổng
dập dồn cất lên thì mọi người đều phải vào vòng xoang với niềm hân hoan
tưởng như bất tận. Có thể nói trong không gian thiêng ấy, thế giới thần
linh luôn hiện hữu cùng với những hoạt động của con người.
Đồng bào Tây Nguyên tin rằng tiếng
chiêng chính là ngôn ngữ con người dùng để giao tiếp với thần linh, với
tổ tiên, với siêu nhiên và để xua đuổi tà ma. Tiếng chiêng đánh dấu
những chặng đường đời, gắn bó với vòng đời của một con người, từ khi đứa
trẻ mới sinh ra nó được cộng đồng thừa nhận bằng lễ "thổi tai" với âm
thanh của một chiếc chiêng cổ nhất của làng. Đứa trẻ lớn lên đến tuổi
trưởng thành, nam giới đánh chiêng cồng và nữ giới múa theo trong các
nghi lễ cộng đồng như lễ gieo hạt, lễ cầu an cho lúa, lễ cốm mới, lễ gặt
mùa, lễ đóng cửa kho lúa. Tiếng chiêng cồng ngày cưới,
tiếng chiêng cồng lên nhà mới vừa xua đi tà ma, vừa ngây ngất men rượu
cần toả ra vẻ nồng say của hạnh phúc và yên vui. Đến khi con người nằm
xuống và trở về với đất, có tiếng chiêng cồng buồn thảm đưa họ đến nhà
mồ. Trong lễ bỏ mả vẫn tiếng chiêng cồng đưa dẫn linh hồn trở về với
cộng đồng tổ tiên. Chiêng cồng thúc giục trai đinh trong chiến đấu,
chiêng cồng hát ca trong lễ đâm trâu mừng thắng trận và chiêng cồng trầm
hùng hoà với giọng hát kể sử thi. Chiêng cồng có mặt trong mọi nghi lễ
quan trọng của con người và cộng đồng. Dòng cồng chiêng quyện với dòng
đời người chính là như vậy.
Nếu trong các buôn làng ngày xưa, cồng
chiêng thường chỉ được sử dụng trong các ngày lễ lớn của gia đình, dòng
tộc hoặc buôn làng thì nay không gian địa lý để cho chiêng cất lời đã
trở nên phổ biến tại những đô thị với các lễ hội mà yếu tố hội hầu như
chiếm phần lớn.
Cho đến ngày nay, dù trong bất cứ
không gian nào thì cồng chiêng Tây Nguyên vẫn còn nguyên giá trị lịch
sử, giá trị nghệ thuật đặc sắc, độc đáo và là một trong những di sản đã
được UNESCO công nhận là "kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại".
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá, tinh thần của nghệ thuật
cồng chiêng nói riêng và văn hoá Tây Nguyên nói chung là trách nhiệm của
những ai yêu mến nền văn hoá cổ sơ của dân tộc, từ đó khẳng định những
giá trị đích thực về cuộc sống mà cha ông ta đã để lại cho con cháu đời
sau./.
(Theo Tây Nguyên trên đường phát triển)
Phố núi Pleiku
Pleiku là thành phố của
tỉnh Gia Lai, là trung tâm chính trị-kinh tế -văn hoá xã hội của tỉnh.
Thành phố có diện tích tự nhiên trên 220 km2, dân số trên 200.000 người.
Ngược dòng lịch sử để tìm hiểu về Phố
núi giữa Cao nguyên nơi có miệng núi lửa cách đây trên một triệu năm.
Pleiku là tên của tỉnh từ thời Pháp thuộc. Pleiku là tên ghép của 2 chữ
Plei có nghĩa là làng, Ku có nghĩa là cái đuôi. Trước khi thực dân Pháp
đặt chân đến đây, trên địa bàn Pleiku có nhiều làng người Jrai ở gần
nhau. Pleiku là một vùng đất cổ hiện nay còn lưu giữ nhiều dấu tích của
người xưa như di chỉ Trà Dôm và Biển Hồ. Nhiều hiện vật gốm thu được có
những mô típ, kiểu dáng gần gũi với các di tích "Tiền Sa Huỳnh" phân bố ở
vùng ven biển trung bộ.
Khi xâm chiếm Pleiku, Pháp đặt doanh
trại đầu tiên trên một vùng đất mà trước đó dân các làng mang tên Pleiku
đã ở lâu đời. Vì thế mà tỉnh và tỉnh lỵ đều lấy tên là Pleiku. Năm
1933, Chính phủ Nam triều thành lập một bộ máy hành chính của Pháp lấy
tên là Đạo Gia Lai (Đạo là tỉnh nhỏ), tỉnh Gia Lai có tên từ đấy.
Phố núi Pleiku ngày nay đã thay da đổi
thịt không ngừng vươn lên từng ngày trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đảm nhận vai trò là trung tâm chính trị - kinh tế - văn
hoá lớn nhất của tỉnh Gia Lai.
PUIH THU
Puih Thu, dân tộc Jrai, Xã đội trưởng xã E14, khu 5, nay thuộc xã Ia Hlốp, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
| ||
Người du kích anh hùng của núi rừng Tây Nguyên
Ở Gia Lai, những người anh hùng trong thời
chống Mỹ còn sống bây giờ chỉ còn vài người, trong đó có Kpuih Thu. Ông
là người dân tộc Jrai, Xã đội trưởng du kích xã E14, nay là xã Ia Hlốp,
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Trong những năm tháng đánh giặc cứu nước,
vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, đội du kích xã E14 do ông chỉ huy
thường xuyên chặn đánh địch trên quốc lộ 14. Puih Thu là một du kích
quả cảm và mưu trí, ông thường xuyên di chuyển trên những tuyến đường có
địch. Trong tầm mắt kẻ thù, chúng chỉ thấy một người đàn ông Jrai đóng
khố, cởi trần, chiếc gùi nhỏ trên lưng, tay cầm con dao nhỏ như một
người đi rừng tìm rau, hái nấm. Chúng không thể biết là ở cổ chân ông
còn có sợi dây thừng đang kéo lê một khẩu súng, đến những nơi có bụi cây
rậm, Puih Thu giả ngồi nghỉ và chờ đến lúc thuận lợi bắn diệt các xe
quân sự Mỹ. Ông đã thực hiện mưu kế này ở nhiều đoạn đường khác nhau.
Chỉ trong ba tháng cuối năm 1966, Puih Thu đã bắn cháy trên 10 chiếc xe
quân sự Mỹ. Không chỉ một mình đánh địch, ông còn hướng dẫn và chỉ huy
du kích xã liên tục bám đường đánh địch không biết bao phen làm kẻ thù
khiếp sợ.
Tên tuổi người Xã đội trưởng Kpuih Thu gắn với những trận
đánh du kích ở Ia Hlốp, Ia Ko (Chư Sê) đã vang dội cả chiến trường Tây
Nguyên. Ngày5/5/1965, Kpuih Thu được Uỷ ban mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
người anh hùng đầu tiên của tỉnh Gia Lai trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
Sau khi nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang, Kpuih Thu càng thấy trọng trách của mình nặng nề hơn, ông đã
không ngại gian nguy, thường xuyên bám địa bàn cơ sở, chỉ huy anh em du
kích ở các làng, xã cách đánh hay để tiêu diệt địch. Nhờ vậy mà phong
trào du kích ở Tây Nguyên ngày càng lớn mạnh và đã góp phần làm nên
những chiến công hiển hách, đi đến trận đại thắng mùa xuân 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những dòng ký ức
Nhớ chuyện thuở xưa, một hôm ở làng, Kpuih
Thu nghe có người bảo: "Đất nước này là của dân tộc Việt Nam, Pháp xâm
chiếm ta đánh Pháp, Mỹ xâm lăng ta đánh Mỹ!". Lúc ấy Kpuih Thu chưa hiểu
nhiều đến chuyện lớn lao nhưng thấy quê hương mình không được bình yên
bởi giặc Mỹ xâm chiếm, đàn áp, cướp bóc và giết chết cả người thân của
mình nên Kpuih Thu kiên quyết:"Phải đánh!". Thế là Kpuih Thu xin được
làm giao liên, rồi tham gia du kích ở E14 (xã Ia Hlốp, Chư Sê, Gia Lai
bây giờ).
Vào du kích được một năm, Kpuih Thu được bầu
làm Xã đội phó rồi sau đó được giao trọng trách Xã đội trưởng du kích
xã Ia Hlốp. Kpuih Thu kể rằng, anh em du kích lúc ấy ở Tây Nguyên còn
thiếu vũ khí nên ông đã hóa trang thành người dân nghèo đi bán chuối rồi
lợi dụng lúc giặc sơ hở, Kpuih Thu lấy trộm súng và lựu đạn về phát cho
anh em để đánh giặc.
Nhớ nhất là trận đánh năm 1963, Kpuih Thu
chỉ huy anh em phục kích chặn đánh địch ở Chư Sê, quốc lộ 14, trên đường
giặc đưa quân từ Đắk Lắk sang Gia Lai. Gần chục chiếc xe tải chở đầy
quân với vũ khí hiện đại nhưng chúng bị anh em du kích xã chỉ một khẩu
súng và nỏ mà tiêu diệt gần hết.
Rồi liên tiếp những năm 1963-1964, Kpuih Thu
chỉ huy anh em du kích địa phương phục đánh các đồn, ấp, tiêu diệt
nhiều lính địch, mở rộng vùng kháng chiến. Kpuih Thu thường khuyên nhủ
anh em du kích rằng: "Chúng ta phải học cách đánh hay và lòng gan dạ của
Bok Núp. Người Tây Nguyên không thiếu trí thông minh và lòng gan dạ,
chúng ta phải đánh cho quân giặc kinh sợ và đừng bao giờ dám xâm lược
đất nước Việt Nam nữa!".
Trong dòng ký ức bao năm tháng, Kpuih Thu nhớ
về một trận đánh khác làm cho địch kinh hoàng khiếp vía, ấy là năm
1964, khi cuộc họp của cán bộ xã đang diễn ra ở Ia Hlốp thì phát hiện có
2 máy bay trực thăng Mỹ ập đến. Kpuih Thu căn dặn anh em: "Kpuih Thu có
súng bắn cho nó rơi xuống, còn anh em chuẩn bị nỏ tiêu diệt từng tên
còn sống sót". Nói xong, Kpuih Thu nhảy nhanh như sóc lên cây gòn rồi áp
súng vào thân cây ngắm thẳng về hướng chiếc trực thăng bay tới mà nhả
đạn. Tiếng súng vừa dứt, một vệt sáng lóe lên, chiếc trực thăng lảo đảo
và rơi trong mịt mù khói đen.Thất bại nhục nhã nên sau vài giờ đồng hồ,
quân giặc cho gần chục xe tăng cùng lính đổ bộ xuống càn quét dân làng
để trả thù. Kpuih Thu cho anh em du kích tạm rút lui về nơi trú ẩn, còn
một mình Kpuih Thu ở lại đặt mìn, tiếp tục tiêu diệt thêm một xe tăng và
6 lính Mỹ.
Không nhớ hết các trận đánh du kích ở đây,
nhưng bằng tinh thần mưu trí, dũng cảm, chỉ trong vòng từ 1961-1965,
Kpuih Thu đã trực tiếp chỉ huy và cùng anh em du kích xã Ia Hlốp phục
đánh địch hàng trăm trận, tiêu diệt nhiều lính Mỹ và quân chính quyền
Sài Gòn, phá hủy nhiều phương tiện quân sự của giặc, khiến quân thù
khiếp sợ.
Anh hùng giữa đời thường
Hòa bình lập lại, Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân Kpuih Thu trở về với cuộc sống đời thường, chăm lo làm ăn
và xây dựng cuộc sống mới ở buôn làng. Ông đã trở thành hạt nhân tiêu
biểu trong phong trào làm kinh tế giỏi, giúp đỡ người dân trong làng
biết cách làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Năm nay đã bước sang cái
tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng Kpuih Thu vẫn không một giờ ngơi nghỉ.
Thường ngày, ông vẫn đôi chân trần thoăn thoắt, nhanh nhẹn với công việc
nương rẫy. Người dân ở làng Te Yỗ, xã Ia Hlốp, luôn tâm đắc ngợi khen:
"Kpuih Thu đánh giặc giỏi,làm kinh tế cũng giỏi".
Sau hơn ba mươi ba năm nước nhà thống nhất,
dù tuổi cao, sức yếu nhưng độ sắc sảo của người du kích Tây Nguyên vẫn
không hề suy giảm, Kpuih Thu vẫn gắn mình vì sự bình yên cho buôn làng.
Ông bảo: "Mình sống ở làng khó khổ mấy về vật chất cũng chịu được nhưng
không chịu nổi cảnh dân mình bị bọn phản động FULRO lừa phỉnh". Trong
những năm tháng ở Chư Sê, Gia Lai bọn phản động FULRO hoạt động mạnh,
Kpuih Thu đã đi vận động nhân dân không nghe theo lời kẻ xấu. Để làm
gương cho dân làng, KpuihThu cho hai người con trai học hành tử tế và
tình nguyện về công tác ở Công an huyện Chư Sê, góp phần giữ gìn cuộc
sống bình yên cho dân làng. Điều ấy, có phải chăng Kpuih Thu xuất thân
từ một gia đình nông dân nghèo trên quê hương Tây Nguyên, lớn lên trong
hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bom đạn của kẻ thù ngày đêm cày xới nên
ông thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ nhục của người dân mất nước.
Ông khuyên con cái mình và những người thân:
"Dù đổi thay sung sướng hay gian khổ cũng phải luôn giữ gìn cái gốc con
người, cái gốc của người cán bộ là gần gũi với nhân dân và giúp đỡ mọi
người trong những hoàn cảnh khó khăn". Và đó cũng là cái gốc của lòng
nhân ái trong con người Anh hùng Kpuih Thu, trọn một đời vì cách mạng,
vì nhân dân.
Nguồn: LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH GIA LAI 1945 - 2005
Báo Công an nhân dân
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét